Đề tài: " Nâng cao khả năng tiếp thu bài tại lớp của học sinh đối với môn Vật lý 8"

Đề tài: " Nâng cao khả năng tiếp thu bài tại lớp của học sinh đối với môn Vật lý 8"

Những năm gần đây do nhiều tác động khách quan, phương pháp và chất lượng dạy học đã có sự phân hoá, có không ít giáo viên dạy giỏi, có tâm huyết với nghề nghiệp, có hiểu biết sâu sắc về bộ môn,. đã khêu gợi được sự suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo, tự lực của học sinh. Trong nhiều giờ dạy Vật lý, giáo viên tạo điều kiện để học sinh trực tiếp làm thí nghiệm và đặt ra ngững câu hỏi có yêu cầu phát triển tư duy với toàn lớp. Trong các giờ học này, thực sự chỉ có một số ít học sinh được làm việc nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn. Nhưng đa số học sinh chưa tự tay làm thí nghiệm, tự mình quan sát, đo đạc và rút ra nhận xét, kết luận. Bản thân học sinh chưa thực sự chủ động tham gia vào quá trình tìm tòi , suy nghĩ về những vấn dề đặt ra trong giờ học.

doc 10 trang Người đăng vultt Lượt xem 1004Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài: " Nâng cao khả năng tiếp thu bài tại lớp của học sinh đối với môn Vật lý 8"", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC
==oo0oo==
ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. SƠ YẾU LÝ LỊCH
Họ và Tên	: Nguyễn Thị Kim Loan
Ngày tháng năm sinh	: 04/01/1983
Năm vào ngành	: 10/2006
Chức vụ và đơn vị công tác	: Giáo viên trường THCS Đông Yên - Quốc Oai - Hà Tây
Trình độ chuyên môn	:Cao đẳng sư phạm
Chuyên ngành	: Vật Lý
Hệ đào tạo	: Chính quy
Trình độ chính trị	: 
Trình độ ngoại ngữ	:
II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI: 
1. Tên đề tài: " Nâng cao khả năng tiếp thu bài tại lớp của học sinh đối với môn Vật lý 8"
2. Lý do chọn đề tài:
Những năm gần đây do nhiều tác động khách quan, phương pháp và chất lượng dạy học đã có sự phân hoá, có không ít giáo viên dạy giỏi, có tâm huyết với nghề nghiệp, có hiểu biết sâu sắc về bộ môn,.... đã khêu gợi được sự suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo, tự lực của học sinh. Trong nhiều giờ dạy Vật lý, giáo viên tạo điều kiện để học sinh trực tiếp làm thí nghiệm và đặt ra ngững câu hỏi có yêu cầu phát triển tư duy với toàn lớp. Trong các giờ học này, thực sự chỉ có một số ít học sinh được làm việc nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn. Nhưng đa số học sinh chưa tự tay làm thí nghiệm, tự mình quan sát, đo đạc và rút ra nhận xét, kết luận. Bản thân học sinh chưa thực sự chủ động tham gia vào quá trình tìm tòi , suy nghĩ về những vấn dề đặt ra trong giờ học. 
Dựa trên cơ sở phân tích tư duy, thấy rõ. Muốn phát triển năng lực sáng tạo, phải đặt cho học sinh những tình huống có vấn đề, kích thích hoạt động tư duy của học sinh. Đó là cơ sở của quan điểm dạy học hiện đại và là lý do để học sinh nắm chắc bài tại lớp. Đây cũng là một trong các biện pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả trên lớp, góp phần nâng cao chất lượng toàn diện cho học sinh, đồng thời xây dựng được phương pháp học tập với bộ môn.
Để phát huy hết khả năng tư duy, sáng tạo của học sinh trong việc giảng dạy môn Vật lý 8 ở trường THCS. Bản thân tôi có một vài kinh nghiệm giúp học sinh học tốt hơn môn Vật lý và tiếp thu bài tại lớp.
3. Phạm vi thực hiện đề tài:
Đề tài thực hiện trong năm học 2007 - 2008 trường THCS Đông Yên - Quốc Oai - Hà tây.
III. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
1. Khảo sat thực tế:
a. Tình trạng thực tế trước khi thực hiện:
Khảo sát thực tế cho thấy ở trường THCS học sinh bắt đầu học môn Vật lý, con đường hình thành kiến thức chủ yếu bằng con đường quy nạp thông qua các thí nghiệm do học sinh tự làm. Đó là quy luật mang tính lôgíc đúng đắn. Tuy nhiên vì học sinh lại sợ môn Vật lý nên coi nó là môn học khó, trừu tượng, vì vật chất lượng học môn này chưa thực sự cao. Một số học sinh tỏ ra tiếp thu bài tại lớp song kiểm tra lại thì không trả lời được hoặc trả lời lủng củng, không rõ ràn, việc lập luận chưa chặt chẽ, vừa thiếu bài, vừa thừa. Đồng thời việc áp dụng lý thuyết để giải thích các tìh huống trong thực tế rất yếu, khả năng tư duy của học sinh còn hạn chế, phần lớn thụ động máy móc do vậy kiến thức không vững.
b. Số liệu điều tra trước khi thực hiện:
Để tìm hiểu và so sánh kết quả có đối chứng thực tê, tôi tiến hành dạy song song hai phương pháp ở hai lớp khác nhau: Lớp 8C và 8D. Trong đó lớp 8C là lớp có ực học trung bình, lớp 8D có lực học khá hơn, song cả hai lớp sức học của các em đều không thực sự đồng đều.
Lớp 8D tôi tiến hành dạy theo các biện pháp như trong đề tài, còn lớp 8C tôi tiến hành dạy theo phương pháp giảng dạy môn Vật lý ở nhà trường THCS trong 1/3 số tiết học kỳ I kết quả chất lượng bài kiểm tra 1 tiết học kỳ I như sau:
Lớp
Sĩ số
Điểm kém
Điểm <5
Điểm > 5
Điểm giỏi
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
8C
43
5
11.6
20
45.6
15
34.9
3
6.9
8D
40
1
2.5
10
25
10
25
19
47.5
Sau khi có kết quả của bài kiểm tra học kỳ I, tôi nhận thấy sự chênh lệch về tỷ lệ các loại điểm giưa hai lớp. Như vậy dạy học theo một số biện pháp như trong đề tài của tôi có hiệu quả rõ ràng, chính vì thế tôi chuyển đỗi phương pháp giảng dạy ở lớp 8D như lớp 8C để tìm hiểu khả năng nhận thức kiến thức mới, củng cố kiến thức cũ như thế nào?
2. Những phương pháp thực hiện ( nội dung chính của đề tài)
2.1 Biện pháp 1: Dạy học bằng phương pháp nêu vấn đề cho học sinh dự đoán hiện tượng Vật Lý.
Tiết học nghiên cứu tài liệu mới là tiết học trong đó học sinh thu được cái mà các em chưa biết hoặc chưa biết rõ ràng, chính xác. Vậy người giáo viên phải làm thế nào cho các em hứng thú ngay từ đầu bài bằng các câu hỏi nêu vấn đề để học sinh cảm thấy các emtự khám phá ra kiến thức mà trước đó các em biết mơ hồ hoặc chưa được biết.
Thí dụ 1: Khi dạy bài “ Sự nở vì nhiệt của chất lỏng và chất khí” giáo viên làm thí nghiệm với quả bóng bàn mới bị bẹp ( không thủng ), giáo viên đặt câu hỏi: “ làm thế nào cho quả bóng phồng trở lại ?”. Dựa vào kinh nghiệm thực tế học sinh có thể đoán được cho quả bóng phồng trở lại bằng cách cho nó vào nước sôi. Giáo viên lại đặt câu hỏi: “ Tại sao quả bóng bàn lại có thể căng phồng trở lại ?”. Học sinh có thể đưa ra các dự đoán.
1. Quả bóng bàn phồng ra là do nhựa quả bóng nở ra vì nhiệt.
2. Không khí bên trong quả bóng nở ra vì nhiệt nên làm cho quả bóng căng phồng trở lại.
Học sinh có thể dự đoán kết luận (1) là không có cơ sở. Giáo viên chốt lại, để biết rõ dự đoán nào là đúng sau bài học các em sẽ biết, hoặc giáo viên có thể giải thích ngắn gọn lý do. Trong quá trình thực nghiệm tôi thấy do thời gian, học sinh có thể chưa đưa ra và lựa chọn các dự đoán hợp lý, nên vài trò của giáo viên là rất quan trọng.
Thí dụ 2: Khi dạy bài: “ Sự sôi”, giáo viên có thể đặt câu hỏi: “ Có khi nào nước sôi ở nhiệt độ nhỏ hơn 1000C ?”. Học sinh đưa ra dự đoán: có thể khi nước lẫn nhiều tạp chất, hoặc có thể nhiệt độ sôi còn phụ thuộc vào yếu tố nào đó nữa. Khi đó giáo viên có thể gợi ý nước có thể sôi ở nhiệt độ thấp hơn 1000C thí dụ như nước trên núi cao. Lúc đó học sinh có thể suy đoán được phần nào: Trên núi cao áp suất không khí giảm đi, tuy nhiên học sinh không chắc chắn đấy có phải là lý do chính xác không. Để gợi sự lôi cuốn vào bài học giáo viên có thể dẫn dắt: Khi học xong bài hôm nay hoặc ít nhất là sau khi làm thí nghiệm các em sẽ biết rõ lý do.
2.2. Biện pháp 2: Xác định kiến thức trọng tâm của bài.
Mỗi tiết học đều có nhiều đơn vị kiến thức. Vậy kiến thức nào là trọng tâm thì giáo viên phải cân nhắc xác định hoạt động trọng tâm, nếu không việc giảng dạy của giáo viên sẽ không tập trung, bị phân tán, dàn trải. Kết quả là giáo viên nói nhiều, làm nhiều mà vẫn không khắc sâu được kiến thức của bài, dẫn đến học sinh không hiểu sâu bài , chất lượng giờ dạy không cao.
Thí dụ 1: Khi dạy bài “ Sự nở vì nhiệt của chất rắn”, giáo viên phải xác định được kiến thức trọng tâm là chất rắn nở ra khi nóng lên, co lại khi lạnh đi, các chất rắn khắc nhau nở vì nhiệt khác nhau. Khi dạy giáo viên cần khắc sâu được kiến thức trọng tâm như đã nói, có thể bằng nhiều cách khác nhau: làm thực nghiệm, đặt câu hỏi phản chứng sẽ giúp học sinh nắm chắc hơn, không mơ hồ , nhầm lẫn.
Thí dụ 2: Khi dạy bài: “ Tìm hiểu kết quả tác dụng của lực”, yêu cầu học sinh phải xác định được vật nào là vật tác dụng lực, vật nào bị tác dụng lực, từ đó kết quả của lực tác dụng lên một vật có thể làm cho vật bị tác dụng lực biến đổi hoặc biến dạng.
Thí dụ 3: Trong bài “ Khối lượng riêng, trọng lượng riêng” phần kiến thức mà học sinh phải nắm chắc tránh nhầm lẫn giữa kiến thức về khối lượng riêng và kiến thức về trọng lượng riêng là khái niệm, kí hiệu, đơn vị, ý nghĩa và công thức tính. Muốn vậy, giáo viên cần cho học sinh nêu sự giống nhau và khác nhau giữa kiến thức khối lượng riêng và trọng lượng riêng từ đó học sinh sẽ không nhầm lẫn giữa các khái niệm và công thức tính ở trên.
Tóm lại: Trong mỗi tiết dạy có nhiều đơn vị kiến thức trọng tâm. Nếu không xác định đúng kiến thức trọng tâm thì việc giảng dạy của giáo viên không đạt hiệu quả như mong muốn. Muốn xác định được kiến thức trọng tâm, người giáo viên cần nghiên cứu kỹ phân phối chương trình của bộ môn, đồng thời xem xét các tài liệu hướng dẫn ở các tài liệu quan trọng. Đặc biệt cần có trao đổi thường xuyên với các đồng nghiệp nắm vững về bộ môn đó.
2.3. Biện pháp 3: Sử dụng thiết bị thí nghiệm và đồ dùng dạy học theo hướng tích cực.
Đối với môn khoa học thực nghiệm như Vật Lý, có thể nói “ Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm”. Nếu không có sự trải nghiệm nhất định trong thực tế thì sự lĩnh hội kiến thức không thể sâu sắc và bền chặt được. Trong giừo học giáo viên tạo điều kiện cho đa số học sinh tự tay làm thí nghiệm, tự mình quan sát, đo đạc và rút ra kết luận nhận xét; tạo điều kiện để học sinh tìm hiểu cấu tạo cách sử dụng dụng cụ đơn giản. Dựa vào số liệu, kết quả của thí nghiệm, phân biệt được dấu hiệu giồng nhau, khác nhau của dấu hiệu bản chất, từ đó so sánh, phân tích, tổng hợp và rút ra kết luận. Khai thác hình vẽ với vai trò là nguồn thông tin chứ không phải là hình vẽ minh hoạ, lời trình bày của sách giáo khoa. Như vậy học sinh mới chủ động trong học tập, sẵn sàng tham gia vào các hoạt động hcọ tập tự lực giải quyết các nhiệm vụ học tập dưới sự điều khiển của giáo viên. Học sinh hứng thú, hào hứng trong quá trình học tập, học sinh chủ động trao đổi với nhau với giáo viên nhiều hơn, luôn lật đi, lật lại vấn đề. Nhiều học sinh thổ lộ: các em rất thích môn Vật Lý vì trong mỗi giờ học như được tham gia một trò chơi lý thú mà chưa từng biết. Trong tình hình hiện nay cơ sở vật chất phục vụ cho việc giảng dạy khá đầy đủ, vì vậy cần tận dụng tất cả các trang thiết bị này phục vụ cho việc giảng dạy có hiệu quả.
Thí dụ 1: Khi dạy bài “ Mặt phẳng nghiêng” cần làm thí nghiệm như H4.2 ( trang 45 – SGK VL6 ). ở mỗi nhóm phân công mỗi bạn trong nhóm thực hiện 1 công việc : HS1 lắp thí nghiệm, HS2 tiến hành đo, HS3 đọc và ghi kết quả. Ở mỗi lần đo yêu cầu các học sinh đó phải thao tác được tất cả các công việc trên. Sau đó cả nhóm dựa vào bảng kết quả thu được đã thảo luận rút ra kết luận.
Thí dụ 2: Khi dạy bài “ Khối lượng – đo khối lượng” yêu cầu học sinh quan sát sử dụng cân Robecvan và đối chiếu với H5.2 ( T19 – SGK VL6 ) để nhận ra các bộ phận của cân. Từ đó giúp học sinh hình dung ra cách sử dụng cân, đảm bảo cho kim cân chỉ đúng vạch giữa, đặt vật đem cân lên 1 đĩa cân và đặt lên đĩa bên kia một số quả cân
Thí dụ 3: Khi dạy bài “ Sự nóng chảy và sự đông đặc”, yêu cầu học sinh nghiên cứu bảng 24.1 ghi “ Nhiệt độ và thể của băng phiến trong quá trình đun nóng” ( T76 – SGK VL6 ) để vẽ đường biểu diễn sự thay đổi nhiệt độ của băng phiến theo thời gian khi đun nóng, trả lời câu hỏi và rút ra kết luận về nhiệt độ nóng chảy của băng phiến.
Thí dụ 4: Khi dạy bài “ Mặt phẳng nghiêng” yêu cầu học sinh quan sát hình mở bài 15.1 và cho biết những người trong hình đang làm gì và tại sao họ làm như vậy ?
2.4. Biện pháp 4: Dành thời thoả đáng cho việc củng cổ và luyện tập
Nói chung cần co sự luyện tập ngay ở mỗi tiết học để khắc sâu, củng cố kiến thức mà học sinh mới tiếp thụ, mỗi tiết học nên dành thời gian từ 5 – 10 phút luyện tập. Đối với các bài có nội dung có kiến thức ít hơn có thể dành thời gian cho việc luyện tập dài hơn một chút. Đối với các bài có nội dung kiến thức dài hơn thì thời gian dành cho việc luyện tập được rút ngắn hơn. Nhưng vấn đề ở đây là luyện tập cái gì ? Theo tôi, việc luyện tập ở đây nên chia thành 2 dạng: bài tập định tính và bài tập định lượng. Có bài tập chỉ có giải thích không phải tính toán và có bài tập phải vận dụng kiến thức để tính toán.
Thí dụ bài: “Chuyển động đều - chuyển động không đều”, “ Công thức tính nhiệt lượng” chỉ có bài tập được tính cần phải vận dụng kiến thức cũng như phần ghi nhớ, “ Có thể em chưa biết” của bài để giải thích thì bài tập mới rõ ràng, đầy đủ, chặt chẽ được. Thí dụ bài tập khi đưa trứng lên đỉnh núi luộc, người ta thấy rằng trứng không chín. Hãy giải thích? với câu hỏi như vậy học sinh phải vận dụng kiến thức về nhiệt độ sôi của chất lỏng, về áp suất để giải thích.
Trong luyện tập cần khai thác sâu sắc các kiến thức SGK. Thí dụ bài: “Lực đẩy ACSIMET”, sau khi học công thức giáo viên cần cho học sinh có thói quen tìm hiểu công thức đó như các đại lượng và đơn vị có trong công thức. Khi xem xét một công thức, cần xem xét hai vấn đề:
- Giá trị tính toán của công thức ( tính toán một đại lượng khi biết các đại lượng còn lại )
- Mối quan hệ giữa các đại lượng có trong công thức.
Trong luyện tập cần thay đổi hình thức câu hỏi để học sinh làm quen với cách hỏi, thí dụ bài “Áp suất”, giáo viên hỏi “ Em hiểu thế nào về áp suất”. Một câu hỏi khá tổng hợp yêu cầu học sinh phải trả lời tất cả các kiến thức cơ bản về áp suất như: khái niệm, công thức, tính chất. Hay bài “ Lực ma sát” với câu hỏi như trên học sinh phải trả lời các kiến thức cơ bản như: Khái niệm, tính chất và ý nghĩa của từng loại lực ma sát. Với cách hỏi đó ta có thể hỏi học sinh nêu hiểu biết của mình về nhiệt năng, về công.
Trong luyện tập cần chú ý rèn luyện kỹ năng diễn đạt đối với các bài tập định tính và rèn luyện kỹ năng trình bày với các bài tập định lượng. Cần uốn nắn cách diễn đạt ngắn gọn và chính xác, ở các bài tập định lượng cần lưu ý xem đơn vị các đại lượng có phù hợp chưa, cần đổi không và đổi như thế nào. Bài tập áp dụng cần cho học sinh ghi chép cẩn thận vào vở và coi đó là bài tập mẫu để học sinh vận dụng cào các bài tập khác.
Tóm lại cần dành thời gian thoả đáng để luyện tập sau khi dạy lý thuyết và điều này coi trọng.
2.5. Biện pháp 5: Giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh .
Đối tượng học sinh đóng vai trò quan trọng trong tiết học. Vì vậy sau khi đã điều tra rõ ràng trình độ của đối tượng học sinh, khi giảng dạy giáo viên cần áp dụng hợp lý. Đối với lớp 8D việc khai thác phải sâu hơn, đòi hỏi học sinh phải tư duy cao hơn, như trong phần biện pháp 4 đã đề cập đến. Tuy nhiên với lớp 8C là lớp có sức học trung bình thì không nên mở rộng, đào sâu như lớp 8D, mà chi cần học sinh nắm được kiến thức cơ bản.
Nói tóm lại, giảng dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh là vô cùng quan trọng. Nó quyết định hiệu quả giờ dạy, như vậy mới thúc đẩy việc học của mỗi đối tưọng học sinh 
IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÓ SO SÁNH, ĐỐI CHỨNG.
Sau một năm thực hiện một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng tiếp thu bài tại lớp của học sinh, bản thân tôi nhận thấy chất lượng học tập, sự sáng tạo cũng như khả năng tiếp thu kiến thức, vận dụng các kỹ năng, kỹ xảo của bộ môn Vật lý của học sinh tăng lên rõ rệt. Đặc biệt học sinh hình thành lối tư duy rất đa dạng, phong phú, khai thác thí nghiệm không còn lúng tún. Học sinh có thói quen nhìn nhận sự vật hiện tượng tốt hơn. Kết quả kiểm tra các bài trong học kỳ II thể hiện sự tiến bộ về nhận thức, tư duy và đặc biệt hơn nữa là sự liên tưởng rất phong phú nhất là lớp 8C có sự chuyển biến lớn.
So sánh đối chứng chất lượng hai lớp 8C và 8D ở hai thời điểm giữa học kỳ I và bài kiểm tra học kỳ II như sau:
Lớp
Sĩ số
Đối chứng
Điểm kém
Điểm<5
Điểm>5
Điểm giỏi
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
8C
43
Giữa HKI
5
11.6
20
46.5
15
34.9
3
7
HKII
0
0
5
11.6
25
58.1
13
30.3
8D
40
Giữa HKI
1
2.5
10
25
10
25
19
47.5
HKII
0
0
0
0
15
37.5
25
62.5
Ngoài ra ở các lớp khác nhau do tôi trực tiếp giảng dạy đều có chuyển biến tương tự. Để đảm bảo nội dung chương trình, chất lượng đào tạo lại là một vấn đề hết sức khó khăn. Nó đòi hỏi người giáo viên phải có tâm huyết với nghề, yêu trò thì mới có thể khắc phục được mọi khó khăn, vì chất lượng giảng dạy bộ môn và chất lượng giáo dục trong nhà trường nói chung, góp phần vào việc xây dựng hình ảnh người thầy vừa hồng, vừa chuyên, xứng đáng là tấm gương cho các em noi theo.
V. NHỮNG KIẾN NGHỊ SAU QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Trên đây là một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng tiếp thu của học sinh tại lớp và trong nhà trường phổ thông. Để việc dạy học có chất lượng cao thì ngoài việc giáo viên phải có phương pháp và khả năng dẫn dắt học sinh tạo khả năng học tập tốt cho các em thì yêu cầu các thiết bị thí nghiệm cũng cần phải đầy đủ nhằm giúp cho việc kiểm chứng cácdự đoán đưa ra và tạo hứng thú cho việc học tập.
Với một số kinh nghiệm ít ỏi của mình, cùng sự hướng dẫn nhiệt tình, tích cực của các đồng nghiệp, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số vấn đề nhằm nâng cao khả năng tiếp thu bài tại lớp môn Vật Lý 8.
Tôi rất mong được sự đóng góp bổ sung ý kiến của hội đồng khoa học cơ sở và các đồng nghiệp giàu kinh nghiệm để tôi có thể tiến bộ, góp vào việc nâng cao hiệu quả của việc đầo tạo thế hệ tương lai cho đất nước.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ý KIẾN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ VÀ
XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG
KHOA HỌC CƠ SỞ
Đông Yên,ngày 10 tháng 5 năm 2008
Tác giả
Nguyễn Thị Kim Loan

Tài liệu đính kèm:

  • docSang kien kinh ngiem vat li 8.doc