Bài dự thi Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào; Lào-Việt Nam - Phạm Hồng Đức

Bài dự thi Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào; Lào-Việt Nam - Phạm Hồng Đức

Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam nảy sinh, phát triển trong sự trùng hợp mục tiêu cách mạng và tình nghĩa của hai dân tộc láng giềng ruột thịt là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; bình đẳng, hữu nghị, giúp đỡ lẫn nhau. Điều đó đã trở thành động lực mạnh mẽ, là cội nguồn sáng tạo và niềm tin tất thắng, biến sức mạnh tổng hợp của hai dân tộc trở thành vô địch của sự nghiệp ,giải phóng và phát triển đất nước từ nô lệ, bị chia cắt, nghèo nàn, lạc hậu trở thành những dân tộc độc lập, tự do, thống nhất, có vị trí xứng đáng trong khu vực và quốc tế.

Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự gắn kết, bền chặt, thủy chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu tranh giành độc lập tự do và tiến bộ xã hội. Mối quan hệ đó được lãnh đạo hai Đảng hai Nhà nước khẳng định là mối quan hệ đặc biệt . Điều này cắt nghĩa cho việc giữ gìn và phát huy mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong lịch sử và trên những chặng đường phát triển mới là vô cùng quan trọng.

 

doc 5 trang Người đăng danhnam72p Lượt xem 568Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Bài dự thi Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào; Lào-Việt Nam - Phạm Hồng Đức", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Họ và tên: Phạm Hồng Đức
Giáo viên trường TH Lý Thường Kiệt
Huyện Krông Pắc tỉnh Đắc Lắc 
BÀI DỰ THI “TÌM HIỂU LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT 
VIỆT NAM- LÀO; LÀO- VIỆT NAM”
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam nảy sinh, phát triển trong sự trùng hợp mục tiêu cách mạng và tình nghĩa của hai dân tộc láng giềng ruột thịt là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; bình đẳng, hữu nghị, giúp đỡ lẫn nhau. Điều đó đã trở thành động lực mạnh mẽ, là cội nguồn sáng tạo và niềm tin tất thắng, biến sức mạnh tổng hợp của hai dân tộc trở thành vô địch của sự nghiệp ,giải phóng và phát triển đất nước từ nô lệ, bị chia cắt, nghèo nàn, lạc hậu trở thành những dân tộc độc lập, tự do, thống nhất, có vị trí xứng đáng trong khu vực và quốc tế.
Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ  Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự gắn kết, bền chặt, thủy chung, trong sáng và đầy hiệu quả  giữa hai dân tộc đấu tranh giành độc lập tự do và tiến bộ xã hội. Mối quan hệ đó được lãnh đạo hai Đảng hai Nhà nước khẳng định là mối quan hệ đặc biệt . Điều này cắt nghĩa cho việc giữ gìn và phát huy mối quan hệ  đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào -  Việt Nam trong lịch sử và trên những chặng đường phát triển mới là vô cùng quan trọng. 
 Quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là quan hệ đặc biệt quy định sự sống, còn của hai dân tộc trong lịch sử cũng như trên những chặng đường phát triển mới. Các điều kiện tự nhiên, địa - chiến lược, địa - quân sự là một trong những yếu tố chi phối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Các  yếu tố đó đặt ra yêu cầu tất yếu về sự hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau giữa hai dân tộc trong lịch sử chống ngoại xâm,  xây dựng và bảo vệ đất nước.   Việt Nam và Lào nằm ở trung tâm bán đảo Ấn - Trung, thuộc vùng Đông Nam Á lục địa. Trong phạm vi bán đảo Đông Dương Việt Nam nằm ở phía  đông Trường Sơn như một bao lơn nhìn ra biển; Lào nằm ở sườn tây dãy Trường Sơn, lọt sâu vào đất liền của bán đảo. Như vậy dãy Trường Sơn được ví như cột sống của hai nước, tạo thành biên giới tự nhiên trên đất liền giữa Việt nam và Lào. Địa hình tự nhiên đã quy định hệ thống giao thông ở Việt Nam và Lào cùng chạy dài theo trục Bắc - Nam; ở Việt Nam là trục quốc lộ 1A và ở Lào là trục quốc lộ 13. Về mặt tự nhiên bên cạnh con đường 13 nối Pạc Xê - Thành Phố Hồ Chí Minh. Lào có thể thông thương ra biển gần nhất bằng hệ thống đường xương cá chạy ngang trên lãnh thổ hai nước đó là  đường 6 Sầm Nưa – Thanh Hoá, đường 7 Xiêng Khoảng - Nghệ An, đường 8 Khăm Muộn - Hà Tĩnh, đường 9 Xavẳnnakhệt - Đông Hà, đường 12 Khăm Muộn - Quảng Bình.... Lãnh thổ Việt Nam trải dài theo chiều dọc của bán đảo, mặt hướng ra biển đông với bờ biển dài 3400 km, tiếp giáp với Vịnh Bắc bộ, biển Đông và Vịnh Thái Lan, có nhiều cảng biển lớn, nhất là các các biển nước sâu ở Miền Trung.
Việt Nam và Lào là những nước thuộc loại “vừa” và “tương đối nhỏ” sống bên cạnh nhau chiếm vị trí địa chiến lược quan trọng ở vùng Đông Nam Á do nằm kề con đường giao thương hàng hải hàng đầu thế giới, nối liền Đông Bắc Á, Nam Á 
qua Tây Thái Bình Dương và Ấn độ Dương. Về quốc phòng,  bờ biển Việt Nam ở phía Đông tương đối dài nên việc bố phòng về mặt biển gặp không ít trở ngại. Trong khi đó dựa vào địa hình hiểm trở, nhất là với dãy Trường Sơn - một “lá chắn chiến tranh” hùng vĩ, một lợi thế tự nhiên che chắn cho cả Việt Nam và Lào, nên chẳng những hai nước có thể khắc phục được những điểm yếu “hở sườn” ở phía đông mà còn phát huy được sự cần thiết dựa lưng vào nhau tạo ra vô vàn cách đánh của chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân bảo vệ tổ quốc. Nhân dân hai nước có thể lấy ít đánh nhiều, lấy yếu chống  mạnh, giành thắng lợi từng bước, tiến lên đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. Về địa - quân sự, Cánh đồng Chum- Xiêng Khoảng, hay cao nguyên BôlaVên của Lào và Tây Nguyên của Việt Nam, vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Đông Bắc Lào....đều là những vị trí có tầm chiến lược hàng đầu trên bán đảo Đông Dương. Nhiều nhà chiến lược và quân sự cho rằng: Ai nắm được địa bàn chiến lược trên, người đó sẽ làm chủ toàn bộ chiến trường Đông Dương.  Điều đó cắt nghĩa  về tầm quan trọng phải giũ gìn và phát huy  mối quan hệ đặc biệt Việt Lào lên tầm cao mới. 
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là tài sản vô giá, là quy luật giành thắng lợi của hai dân tộc. Quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là mối quan hệ  giữa hai dân tộc  cùng chung lý tưởng chiến đấu.  Đảng cộng sản Việt Nam - tiền thân của Đảng cộng sản Đông Dương thành lập, đánh dấu việc thiết lập quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào -  Việt  Nam. Việt Nam, Lào, Cao Miên tuy là ba nước nhưng đều nằm trong một xứ, đều bị thực dân Pháp thống trị và áp bức. Giai cấp vô sản và nhân dân lao động bị áp bức trong ba nước muốn đánh đổ thực dân Pháp, giành lại độc lập, đánh đổ chế độ phong kiến để giải phóng cho mình thì không thể đấu tranh riêng lẽ được. Ngay sau khi hợp nhất ba tổ chức cộng sản và lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng đã thông qua các văn kiện “Chánh cương vắn tắt của Đảng”, “Sách lược vắn tắt của Đảng” “ Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng”. “Sách lược vắn tắt” và “ Chương trình tóm tắt” chứa đựng tinh thần yêu nước chân chính kết hợp với tinh thần quốc tế trong sáng, được thể hiện ở chỗ trong khi tuyên truyền khẩu hiệu An Nam độc lập, đồng thời cũng tuyên truyền và xây dựng quan hệ đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới.  Với những văn kiện đó, nhất là “Luận cương chánh trị” của Đảng cộng sản Đông Dương sau đó đã xác định cụ thể, toàn diện về mặt lý luận cho mối quan hệ giữa phong trào cách mạng Việt nam và phong trào cách mạng Lào, đặt phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng Lào với các tổ chức Đảng trong các xứ Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam Kỳ, Ai lao, Cao Miên dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương. 
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt  Nam đã được khẳng định trong lịch sử,  in đậm những mốc son sáng chói về tình nghĩa  ruột, thịt, thủy chung trong sáng, nương tựa lẫn nhau, sống chết có nhau: Nhân dân Lào đã cùng Việt Kiều tích cực đấu tranh chống chế độ thuộc địa, phối hợp và ủng hộ cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930 – 1939 và  tiến hành cuộc vận động  khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền giai đoạn 1939-  1945. Hợp tác giúp nhau chống thực dân Pháp xâm lược; phối hợp đấu tranh thực hiện Hiệp định Giơ ne Vơ, chống Chiến lược chiến tranh đặc biệt của Đế quốc Mỹ, thiết lập quan hệ ngoại giao ( 1954- 1962); phát triển liên minh chiến đấu, đánh thắng các chiến lược chiến tranh của Đế quốc Mỹ, giành thắng lợi hoàn toàn ( 1973 -1975 ); Quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam trong giai đoạn khảo nghiệm, mở đường đổi mới ( 1976 – 1986) Quan hệ đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế ( 1986 – nay). Trong tiến trình cách mạng đó, mỗi bước phát triển của cách mạng Lào tạo hậu thuẩn cho cách mạng Việt Nam giành thắng lợi và ngược lại thắng lợi của cách mạng Việt Nam tạo điều kiện cho cách  mạng Lào phát triển.  Mối quan hệ đó xuẩt phát từ yêu cầu khách quan của công cuộc đấu tranh giải phóng mang bản chất quốc tế vô sản, mang lại hiệu quả rõ rệt. Trong sự nghiệp chung đó, Lào và Việt Nam đã trở thành những người bạn, những người đồng chí, những người anh em máu thịt, chung một kẻ thù, chung một chiến hào đánh thực dân Pháp, đánh đế quốc Mỹ. Đó là một mối quan hệ xưa nay hiếm - một mối quan hệ láng giềng tự nhiên, có lịch sử gắn bó lâu dài, chung một dãy Trường Sơn, chung một dòng sông Mê Kông, chung một ý thức hệ... Hai Đảng, hai Nhà nước không những đã  đoàn kết, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau chống kẻ thù chung là Pháp và Mỹ mà còn  giúp đỡ nhau có hiệu quả trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trải qua nhiều thử thách khắc nghiệt, đầy hy sinh gian khổ vì độc lập tự do, hạnh phúc của hai dân tộc và nhân dân hai nước đã trở thành quy luật sống còn và sức mạnh kỳ diệu đưa tới những thắng lợi vĩ đại của Việt Nam và Lào trong đấu tranh giành chính quyền, kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược; tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới đưa hai nước cùng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Đối với nhân dân hai nước Việt Nam và Lào, quan hệ đặc biệt được coi là lẽ sống, là tình nghĩa ruột thịt thân thiết, trước sau như một, dù gian nan nguy hiểm đến chừng nào cũng không thể chia tách được.  Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Việt - Lào hai nước chúng ta. Tình sâu như nước Hồng Hà, Cửu Long”. Chủ tịch Cayxỏn phômvihản khẳng định: “ Trong lịch sử cách mạng thế giới cũng đã có những tấm gương sáng chói về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có sự đoàn kết, liên minh chiến đấu đặc biệt lâu dài toàn diện như vậy”. 
Nhìn lại lịch sử đã qua, Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng nhân dân cách mạng Lào luôn nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn, quý báu, chí tình, chí nghĩa và có hiệu quả mà hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước dành cho sự nghiệp cách mạng của nhau. Những năm qua, hai bên thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc cấp cao, duy trì cơ chế trao đổi thông tin, lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về công cuộc đổi mới và xây dựng Đảng; hoàn thành và công bố các sản phẩm của Công trình Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào; hợp tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực được ưu tiên và mở rộng với nhiều hình thức được thực hiện từ Trung ương tới các bộ, ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp. Hai bên đã ký Đề án nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác Việt Nam – Lào trong lĩnh vực giáo dục và phát triển nguồn nhân lực, giai đoạn 2011 – 2020. Những năm gần đây, hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư giữa hai nước tiếp tục được tăng cường; Việt Nam là nước đứng thứ hai trong số các nước đầu tư vào Lào với 5200 cán bộ lưu học sinh Lào đang học tập tại các cơ sở đào tạo của Việt Nam và 500 lưu học sinh Việt Nam đang học tập tại Lào. Thương mại hai chiều năm 2011 đạt 734 triệu USD, tăng 50% so với năm 2010. Hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam tại Lào với hơn 400 dự án, tổng vốn đầu tư trên 5 tỷ U SD. Dự báo đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam sẽ tăng 7 tỷ USD vào năm 2015, kim ngạch 2 chiều đạt 2-3 tỷ USD vào năm 2015 và 5 tỷ USD vào năm 2020. Trong năm 2012, hàng loạt các công trình, dự án sẽ hoàn thành chào mừng Năm đoàn kết hữu nghị Việt - Lào, như Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Lào, Đường 2E, Nhà máy thủy điện Xe KhamAn, Trường PTTH dân tộc nội trú HuaPhan. 
Tại kỳ họp lần thứ 33 Ủy ban liên Chính phủ, hai bên đã ký thỏa thuận về Chiến lược hợp tác giai đoạn 2011 – 2020; Hiệp định hợp tác Việt Nam – Lào giai đoạn 2011 – 2015; Hiệp định hợp tác Việt Nam – Lào năm 2011. Bên cạnh đó, Việt Nam và Lào thường xuyên trao đổi thông tin và phối hợp chặt chẽ trong các vấn đề quốc tế và khu vực, hoạt động tại các tổ chức và các diễn đàn đa phương.  Sự ủng hộ mạnh mẽ và toàn diện của hai Đảng, hai nước dành cho nhau trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước của mỗi nước là vô cùng  quan trọng và to lớn.Sau 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhân dân Lào đã giành được những thành tựu to lớn, toàn diện, có ý nghĩa lịch sử, làm cho thế và lực của Cách mạng Lào không ngừng lớn mạnh, uy tín và vị thế của nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Những thắng lợi đó không chỉ có ý nghĩa sâu sắc đối với nhân dân Lào, mà còn là nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam luôn ghi nhận với sự biết ơn sâu sắc Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào anh em về sự ủng hộ và giúp đỡ chí tình, chí nghĩa, vô tư, trong sáng và có hiệu quả trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước trước đây, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nhà nước và nhân dân cùng các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam luôn ủng hộ và tin tưởng vững chắc rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân Dân Cách Mạng Lào, nhân dân Lào anh em sẽ tiếp tục giành được nhiều thành tựu mới, to lớn hơn nữa trong công cuộc đổi mới, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, xây dựng thành công nước Lào hòa bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng 
 Bước sang thế kỷ XXI, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc trong thế giới hiện đại trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt kinh tế, khoa học, công nghệ, thương mại......Đó là xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Toàn cầu hóa vừa có thời cơ cho sự hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời cũng là những thách thức to lớn, nhiều khi hoàn toàn mới mẽ đối với các nước đang còn ở trong tình trạng chậm phát triển. Thế giới đứng trước những vấn đề toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẽ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương. Mặt khác vị trí chiến lược của Đông Nam Á ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương từ lâu đã trở thành địa bàn tranh chấp ảnh hưởng và quyền lực giữa các nước lớn trên thế giới. Cùng với sự phát triển như vũ bão của quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa, Đông Nam Á ngày càng trở nên sống động, không chỉ bởi sự gia tăng hợp tác và liên kết nội khối, mà còn trở thành nơi hội tụ của các sáng kiến mới thúc đẩy quan hệ hợp tác ASEAN với các đối tác bên ngoài, đặc biệt là với các nước lớn và các nước đang phát triển. Trước xu thế đó, các nhà lãnh đạo ASEAN càng nhận thức rõ hơn tính bức thiết trong việc đẩy nhanh tiến trình hội  nhập trong nội khối cũng như ngoài khu vực. Chính vì vậy,  Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đại hội IX của Đảng NDCM Lào tiếp tục khẳng định đường lối, chính sách coi trọng và không ngừng củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, coi đó là di sản vô giá của hai dân tộc và là quy luật phát triển, là một trong những nhân tố đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở mỗi nước. Việc đưa quan hệ Việt Nam - Lào lên tầm cao mới sẽ đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào, đồng thời đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.Trên tinh thần đó, ngay sau khi được bầu làm Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt nam, Tổng Bí thư, Chủ tịch quốc hội  Nguyễn Phú Trọng trong hoạt động đối ngoại của mình đã chọn Lào là quốc gia đầu tiên trong chuyến thăm chính thức của mình trên cương vị Tổng Bí thư và cũng ngay sau khi được bầu làm Tổng bí thư, chủ tịch nước của Đảng nhân dân cách mạng Lào, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Choummaly Sayasone đã chọn Việt Nam trong chuyến thăm hữu nghị chính thức của mình. Những hoạt động đó là biểu hiện sinh động của tình hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt, gắn bó keo sơn, thủy chung, trong sáng giữa hai Ðảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước và là bằng chứng hai Đảng, hai nhà nước và hai dân tộc luôn ưu tiên và coi trọng, quan tâm và chăm sóc để mối quan hệ Việt-Lào “mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững”
Tuyên bố chung về kết quả cuộc hội đàm giữa Tổng Bí thư  Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Choummaly Sayasone  trong chuyến thăm hữu nghị   chính thức Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Choummaly Sayasone  đã khẳng định:Đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào trên cơ sở phát huy tinh thần độc lập, tự chủ và ý chí tự lực, tự cường, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi, kết hợp thỏa đáng tính chất đặc biệt của quan hệ Việt Nam - Lào với thông lệ quốc tế, vì sự phát triển phồn vinh của mỗi nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở Đông Nam Á và trên thế giới.Lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước  thường xuyên trao đổi một số biện pháp nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả các thỏa thuận cấp cao hai Đảng, hai nước. Trong đó đặc biệt chú ý việc Chính phủ hai nước cần tích cực chỉ đạo các Bộ, Ngành,địa phương triển khai thực hiện Hiệp định hợp tác 5 năm 2011-2015 và Chiến lược hợp tác 10 năm 2011- 2020;Tăng cường quan hệ hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa các địa phương của hai nước, nhất là các địa phương có chung biên giới; sớm kiện toàn tổ chức bộ máy, đổi mới cơ chế và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Liên Chính phủ và bộ phận thường trực Phân ban hợp tác Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.Tiếp tục đi sâu trao đổi thông tin, kinh nghiệm, nhất là những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng Đảng, về công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phối hợp đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ về mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong giai đoạn mới, trong đó đặc biệt quan tâm việc tuyên truyền, giáo dục dưới nhiều hình thức về Công trình Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.Chủ động chuẩn bị kỹ, trao đổi thống nhất và phối hợp chặt chẽ về nội dung, chương trình hoạt động của “Năm đoàn kết hữu nghị 2012” trong đó có việc Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước thăm chính thức lẫn nhau để cùng khai mạc và bế mạc “Năm đoàn kết hữu nghị 2012,” tổ chức khởi công hoặc khánh thành một số công trình trọng điểm tạo dấu ấn về quan hệ đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt-LàoCần có sự phối hợp và sự hợp tác chặt chẽ giữa hai nước trong việc thực hiện chiến lược phát triển; đẩy mạnh hợp tác về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực... trong hoàn cảnh nào hai Đảng và nhân dân hai nước cũng làm hết sức mình để giữ gìn và vun đắp cho mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững, truyền mãi cho các thế hệ mai sau; không ngừng phát triển quan hệ hai nước ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả và thiết thực, vì sự phát triển phồn vinh của mỗi nước, vì hòa bình ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Phối hợp tổ chức các hoạt động kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1962-2012) và 35 năm ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Lào (1977-2012). Phối hợp chặt chẽ để thực hiện thắng lợi thoả thuận chiến lược về hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học - kỹ thuật giữa hai nước giai đoạn 2011-2020, Hiệp định hợp tác giai đoạn 2011-2015 và Hiệp định hợp tác năm 2011; tập trung hợp tác xây dựng một số công trình kinh tế có vai trò kết nối nền kinh tế hai nước và kết nối với khu vực và thế giới. 
 Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh; hoàn thành dự án tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới vào năm 2014 và tiếp tục xây dựng tuyến biên giới Việt Nam - Lào. Khẳng định mong muốn cùng các bên liên quan giải quyết vấn đề biển Đông bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), nhằm giữ gìn hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực. Hai Đảng  luôn duy trì, giữ vững và giúp đỡ lẫn nhau một cách chí tình và vô tư, trong sáng để cùng phát triển, đồng thời giữ vững các mục tiêu cách mạng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở mỗi nước. 
 Một lần nữa chúng ta khẳng định một điều rằng, giữ gìn và phát huy mối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam có ý nghĩa cực kỳ quan  trọng. Bởi lẽ, đó là mối quan hệ đặc biệt  được hai Đảng, hai Nước và nhân dân hai dân tộc thường xuyên trân trọng, vun đắp và gìn giữ qua các thời kỳ cách mạng. Chúng ta tin tưởng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của hai Đảng, nhân dân hai Nước sẽ thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng cũng như kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của mình

Tài liệu đính kèm:

  • docbai_du_thi_tim_hieu_lich_su_quan_he_dac_biet_viet_nam_lao_la.doc