Đề tài Giảng dạy tác phẩm " Đồng Chí " Ngữ văn 9

Đề tài Giảng dạy tác phẩm " Đồng Chí " Ngữ văn 9

 Trong nhà trường phổ thông, môn Ngữ Văn là một bộ môn quan trọng. Đây là một môn chiếm tỉ lệ giờ cao trong số các tiết học, là một bộ môn có nội dung nghệ thuật, vừa có nội dung khoa học như bất kì bộ môn văn hoá nào khác. Do vậy: “Dạy Văn là dạy cách làm người”.Trong những năm gần đăy, việc dạy học môn ngữ văn trong nhà trường THCS nói riêng và trong nhà trường phổ thông nói chung đã có những chuyển biến rõ rệt theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh . Giáo viên tích cực tiếp thu phương pháp mới ; học sinh tiếp thu theo hướng tích cực chủ động. Để khẳng định sự đổi mới phương pháp dạy học mới, chúng tôi chú ý tới khâu giảng dạy của thày và khâu tiếp nhận của trò. Nếu mhư trong giờ dạy Tiếng Việt cần phải chú ý tới phương pháp nêu vấn đề giải quyết vấn đề nhằm khai thác tới bài học và kiến thức mới thì trong giờ dạy văn cần chú ý tới hệ thống cau hỏi để làm bật nên chất văn, giọng văn giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương .

doc 10 trang Người đăng vultt Lượt xem 813Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Giảng dạy tác phẩm " Đồng Chí " Ngữ văn 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
 Trong nhà trường phổ thông, môn Ngữ Văn là một bộ môn quan trọng. Đây là một môn chiếm tỉ lệ giờ cao trong số các tiết học, là một bộ môn có nội dung nghệ thuật, vừa có nội dung khoa học như bất kì bộ môn văn hoá nào khác. Do vậy: “Dạy Văn là dạy cách làm người”.Trong những năm gần đăy, việc dạy học môn ngữ văn trong nhà trường THCS nói riêng và trong nhà trường phổ thông nói chung đã có những chuyển biến rõ rệt theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh . Giáo viên tích cực tiếp thu phương pháp mới ; học sinh tiếp thu theo hướng tích cực chủ động. Để khẳng định sự đổi mới phương pháp dạy học mới, chúng tôi chú ý tới khâu giảng dạy của thày và khâu tiếp nhận của trò. Nếu mhư trong giờ dạy Tiếng Việt cần phải chú ý tới phương pháp nêu vấn đề giải quyết vấn đề nhằm khai thác tới bài học và kiến thức mới thì trong giờ dạy văn cần chú ý tới hệ thống cau hỏi để làm bật nên chất văn, giọng văn giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương . 
Trong hệ thống câu hỏi của giảng văn có sự khác nhau giữa việc gỉang tác phẩm tự sự với tác phẩm thơ trữ tình. Việc giảng tác phẩm thơ trữ tình đòi hỏi người giáo viên không chỉ khai thác đúng nội dung tác phẩm mà còn đòi hỏi khai thác cái hay, cái đẹp của ngôn từ, hình ảnh nhịp điệu... Đấy chính là cái khó trong quá trình giảng dạy thơ. Với bài thơ "Đồng Chi" của Chính Hữu trong chương trình Ngữ văn 9 cũng nằm trong phạm vi này,chính vì vậy chúng tôi muốn thảo luận đôi nét về việc giảng dạy tác phẩm để tiếp cận tác phẩm và truyền tải đến các em một cách tốt nhất.
II THỰC TRẠNG.
Trong những năm học qua các giáo viên day văn của trường Nghi Yên luôn trăn trở, cố gắng tìm tòi phương pháp để giảng dạy các tác phẩm thơ nói chung và tác phẩm "Đồng Chí" nói riêng song trên thực tế thì kết quả đạt được chưa được như mong muốn. Thực sự giáo viên chưa truyền tải hết ý đồ của tác giả về nội dung và hình thức nghệ thuật, về cái hay cái đẹp của bài thơ. Cũng như vậy thì học sinh cũng chưa tiếp cận và lĩnh hội hết được giá trị của tác phẩm. Chính vì vậy năm học 2009-2010 tổ văn chúng tôi đã có chuyên đề về việc giảng dạy tác phẩm " Đồng Chí " để đưa ra một số giải pháp phù hợp với tình hình học sinh để đem lại kết quả cao nhất trong giờ học.
III. HƯỚNG GIẢI QUYẾT .
Để dạy tốt bài thơ " Đồng Chí "của Chính Hữu trước hết người giáo viên phải nắm vững mục đích uêu cầu của bài :Giúp HS cảm nhận được vẻ đẹp chân thực, giản dị của tình đồng chí, đồng độivà hình ảnh người lính cách mạng được thể hiện trong bài thơ. Nắm đượcđặc sắc nghệ thuật của bài thơ : chi tiết chân thực, hình ảnh gợi cảm và cô đúc, giàu ý nghĩa biểu tượng. Đồng thời rèn luyện năng lực cảm thụ và phân tích các chi tiết nghệ thuật, các hình ảnh trong một tác phẩm thơ giàu cảm hứng hiện thực mà không thiếu sức bay bổng.
Ngoài ra GV cũng phải nắm được những kiến thức bên lề tác phẩm để khi phân tích bài giảng sẽ thêm phần hấp dẫn . Cụ thể bài thơ ra đời vào đầu năm 1948, sau chiến dịch Việt Bắc của quân và dân ta đánh thắng cuộc tiến công quy mô lớn của quân Pháp cuối năm 1947 lên khu căn cứ địa Việt Bắc. Nhà thơ Chính Hữu lúc đó là chính trị viên đại đội thuộc Trung đoàn Thủ đô, cùng đơn vị của mình tham gia chiến đấu suốt chiến dịch. Bài thơ là kết quả của những trải nghiệm thực và những cảm xúc sâu xa, mạnh mẽ của tác giả với đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc.
Đặt bài thơ " Đồng Chí " vào tình hình sáng tác thơ ca những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp để thấy rõ hơn những đóng góp quan trọng của tác phẩm này. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, phần lớn các tác phẩm viết về người lính cách mạng thường chủ yếu khai thác cảm hứng lãng mạn anh hùng với những hình ảnh mang dáng dấp tráng sĩ, trượng phu. Ngay Chính Hữu vào đầu năm 1947 đã có bài Ngày về với những hình ảnh như : "Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm- Bụi trường chinh phai bạt áo hào hoa". Bài Đồng Chí vùng với một vài bài thơ khác như Cá nước, Phá đường của Tố Hữu, Bài ca vỡ đất của Hoàng Trung Thông đã mở ra một khuynh hướng khác viết về quần chúng kháng chiến : cảm hứng thơ hướng về chất thực cảu đời sống kháng chiến, khai thác cái đẹp và chất thơ trong cái bình dị, bình thường, không nhấn mạnh cái phi thường.
Giáo viên cần lưu ý HS về khuynh hướng cảm hứng nói trên của tác giả trong bài Đồng Chí để có định hướng cảm thụ và phân tích đúng với tác phẩm.
Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách mạng – mà phần lớn họ đều xuất thân từ nông dân. Đồng thời trong bài thơ cũng làm hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn rất khó khăn, thiếu thốn. Hai nội dung trên đây đan cài và thống nhất với nhau được thể hiện trong cả bài thơ. Tuy nhiên khi hướng dẫn HS tìm hiểu bài thơ, GV có thể tách thành hai ý chính như trên để cảm nhận được sâu từng phương diện nội dung tác phẩm. Nhưng trọng tâm vẫn là phân tích vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội của người lính.
Trước khi đi vào phân tích tác phẩm GV cần cho học sinh nắm được phần tác giả, tác phẩm. Cần nhấn mạnh các vấn đề sau:
Về tác giả : Chính Hữu là người lính trung đoàn Thủ đô trở thành nhà thơ quân đội. Thơ của ông hầu như chỉ viết về người kính và hai cuộc khánh chiến, đặc biệt là những tìng cảm cao đẹp của người lính, như tình đông chí, đồng đội, tình quê hương, sự gắn bó giữa tiền tuyến và hậu phương...
Về hoàn cảnh sáng tác bài thơ : Chính Hữu cùng đơn vị tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc. Trong chiến dịch ấy, cũng như những năm đầu của cuộc kháng chiến, bộ đội ta còn hết sức thiếu thốn. Nhưng nhờ tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu và tình đồng đội, họ dã vượt qua tất cả để làm nên chiến thắng. sau chiến dịch Việt Bắc, Chính Hữu viết bài thơ Đồng Chí vào đầu năm 1948. Bài thơ là sự thể hiện những tình cảm tha thiết, sâu sắc của tác giả với những người đồng chí, đồng đội của mình.
Bài thơ theo thể thơ tự do, có 20 dòng, chia làm 2 đoạn. Cả bài thơ tập trung thể hiện vr đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng dội, nhưng ở mỗi đoạn sức nặng của tư tưởng và cảm xúc được dẫn dắt để dồn tụ vào những dòng thơ gây ấn tượng sâu đậm ( các dòng 7,17 và 20). Sáu dòng đầu có thể xem là sự lí giải về cơ sở của tình đồng chí. dòng 7 có cấu trúc đặc biệt ( chỉ một từ với một dấu chấm than ) như một phát hiện, một lời khẳng định sự kết tinh tình cảm giữa những người lính. Mười dòng tiếp theo, mạch cảm xúc sau khi đồn tụ ở dòng 7 lại tiếp tục khơi mở trong những hình ảnh, chi tiết biểu hiện cụ thể, thấm thía tình đồng chí và sức mạnh của nó. Ba dòng thơ cuối cùng được tác giả tách ra thành một đoạn kết, đọng lại và ngân rung với hình ảnh đặc sắc " đầu súng trăng treo " như là một biẻu tượng giàu chất thơ về người lính.
Giáo viên đi vào làm rõ lần lượt các nội dung trên nhưng trọng tâm là những biểu hiện của tình đồng chí. Trong quá trình phân tích GV phải lưu ý về một số vấn đề sau :
Cấu trúc của một thi phẩm phụ thuộc rất nhiều vào ý tưởng chủ đạo của nó. Mà ý tưởng chủ đạo bao giờ cũng triển khai thành mạch suy cảm trong toàn bài. Một câu hỏi đặt ra: mạch suy cảm trong bài Đồng chí bắt đầu từ đâu? Hỏi thế cứ như lẩn thẩn. Thì từ đầu chứ còn từ đâu nữa? Không hẳn. Hình như không phải từ đầu. Mà từ cuối. Chính thức là từ cái “đêm nay”” Khẳng định thế có gì phi lý chăng? Không. Bao giờ thơ trữ tình cũng hiện tại hoá quá khứ. Điều này đã thành quy luật. Tâm tư dù thuộc về quá khứ thì vẫn cứ phải được trình bày như là hiện tại, như đương diễn ra. Mà hiện tại trong thi phẩm chỉ có một “đêm nay”. ấy là lúc hai người lính đang “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Chỉ lát nữa, chiến sự sẽ nổ ra. Giữa họ, biết ai còn ai mất. Tình huống ấy thường xui khiến con người nhớ lại những kỷ niệm tình nghĩa, những gì đã khiến họ gắn bó với nhau. Thế là hồi ức đưa họ ngược trở về với quá khứ xa, khi quan hệ bắt đầu... rồi quá khứ gần, khi họ đã nên tình nên nghĩa... Và cứ thế, theo đường dây của kỷ niệm, hồi ức lại đưa họ về hiện tại, về lại “đêm nay”, cho họ tin cậy, cho họ thanh thản trước giây phút đối mặt với kẻ thù. Mạch tâm tư đã nảy sinh như thế. Thi phẩm cũng thành hình như thế. Nói cách khác, bằng cuộc tâm tình của đôi bạn lính bên chiến hào, bài thơ đã tìm được một hình hài phù hợp để tự định dạng cho mình.: Đêm nay rừng hoang sương muối
Mạch tâm tư ấy đã chuyển tải ý tưởng chủ đạo nào? Ý tưởng về tình đồng chí. Dường như, Chính Hữu muốn thể hiện những suy cảm của mình về mối tình cao đẹp này. Đó là những khám phá sâu sắc về tình đồng chí giữa những người vệ quốc - một quan hệ vừa mới được cuộc kháng chiến khai sinh. Có phải cứ gọi nhau bằng hai tiếng “đồng chí” là hiển nhiên có tình đồng chí không? Hình như không. Phải trải bao tháng ngày, phải biết bao kỷ niệm, quan hệ mới thắm dần lên từng bước, rồi đến một ngày kia, tất cả mới kết tinh thành tình đồng chí. Chính Hữu đã khéo léo cài đặt mạch luân lý (đúc kết về quan hệ) vào mạch tâm tình (bộc bạch về tình cảm). Sự đan quyện nhuần nhuyễn và tinh vi của hai mạch này đã làm nên cấu trúc của bài thơ. Nhìn kĩ, hai mạch ấy vừa hoà vào nhau vừa dắt díu nhau đi suốt mạch thơ bởi cùng nương theo một chữ đồng. Nói vui, thi phẩm đã tạc một chữ đồng đến... xương.
Thoạt tiên, là đồng cảnh; quan hệ còn là xa lạ:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
          Những câu thơ ấy nói cùng ta rằng họ đều xuất thân nông dân, đều là con đẻ của những miền quê nghèo khó, và quan trọng hơn, họ đều ở những góc biển chân trời. Nếu không có cuộc chiến tranh này, họ sẽ vĩnh viễn là những người xa lạ, mỗi người sẽ sống riêng một số phận, người này không biết có người kia ở trên đời. 
          Cuộc kháng chiến là cuộc hội ngộ lớn. Nó biến những người xa lạ thành thân quen. Vào lính, họ thành người đồng ngũ: 
           Anh với tôi đôi người xa lạ
          Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
          Nhưng đồng ngũ đã là đồng chí chưa? Chưa. Thân quen thôi chưa đủ thành đồng chí. Rồi cùng với thời gian, đời sống quân ngũ cứ làm họ xích lại gần hơn :
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí
Nhiệm vụ làm họ gần kề - hai chữ “bên” và “sát” đã xoá bỏ hẳn đi cái khoảng cách vời vợi của những phương trời. Nhưng đồng nhiệm cũng chưa là đồng chí. Quân sự chỉ xoá được khoảng cách không gian, tâm sự mới xoá được khoảng cách tình cảm. Từ lẻ loi góc bể chân trời, họ đã tụ về rủ rỉ dưới một tấm chăn. Từ đồng ngũ đã thành đồng cảm. Từ thân quen giờ họ thành tri kỷ. Bấy giờ, tình đồng chí mới thực sự kết tinh. Từ “bên” bật lên như một tiếng reo, một vỡ lẽ bất ngờ, một chiêm nghiệm chín chắn. Câu thơ đột ngột ngắn lại như một kết tủa. Tình đồng chí khác nào một tinh thể lấp lánh, sau bao kỷ niệm và thời gian. ” qua “sát” đến “chung” là cả một hành trình, quan hệ đồng đội cứ đượm lên, cứ thắm dần mà thành tình đồng chí. Hai tiếng “Đồng chí
Vậy là, theo chân chữ “đồng”, hai mạch luận lý và cảm xúc đã chập vào nhau, một chiều qui nạp :
              Đồng cảnh -> đồng ngũ -> đồng cảm 
-> đồng chí
               Xa lạ -> quen nhau -> tri kỷ                                   
ở phần sau, chúng ta còn thấy những chữ đồng - cùng khác đã vun đắp cho tình đồng chí của họ. Cùng một nỗi bận lòng như nhau về hậu phương: Ruộng nương anh gửi bạn thân cày / Gian nhà không mặc kệ gió lung lay / Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Cùng sẻ chia những nỗi cơ hàn: Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh / Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi. Và đồng cam cộng khổ: Áo anh rách vai / Quần tôi có vài mảnh vá / Miệng cười buốt giá / Chân không giày. Cuối cùng, như quy nạp của mọi quy nạp, thi sĩ chỉ ra cái lõi của tình đồng chí chính là tình thương:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Tình thương là vị muối của tình người, là chất keo của mối gắn bó, là cội rễ của đức hy sinh. Thương nhau, con người có thể thuỷ chung với nhau. Thương nhau, con người có thể che chở nhau, hy sinh cho nhau. Đó là kết tinh sâu nặng nhất của quan hệ người với người. Không phải ngẫu nhiên, khi nhận thấy tình đồng chí của mình có cốt lõi là tình thương, họ không trầm mình trong hồi ức nữa, mà lập tức về ngay hiện tại. Bởi thế là đủ, tình đồng chí giữa mình và người bạn cùng chiến hào, đây đã thực sự là điểm tựa tin cậy rồi, nó hoàn toàn có thể giúp họ đối mặt với sự hà khắc của thiên nhiên và sự hiểm nguy của chiến sự: 
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Tin cậy cho họ thanh thản. Thanh thản khiến họ đón nhận được vẻ đẹp của vầng trăng lơ lửng treo trên đầu mũi súng. Khoảnh khắc ấy, người chiến sĩ bỗng thành thi sĩ. 
Như vậy, theo những mảng lớn của thi phẩm, có thể thấy một ý tưởng trọn vẹn: tình đồng chí được nảy nở trong kháng chiến, được vun đắp trong gian lao, và thành điểm tựa tin cậy khi đối mặt với nguy hiểm, bởi tình thương chính là cốt lõi của mối tình ấy. 
Tứ thơ là một khám phá, tình thơ là một tâm sự, mạch thơ là một hồi ức. Tất cả đã hoá thân vào nhau, nhất thể hoá trong một kiến trúc ngôn từ.
*        *
*
Làm nên kiến trúc ấy, phải kể cả thành công về chất liệu ngôn từ của Đồng chí. Có thể có những cách cảm nhận và định danh khác nhau về đặc sắc ngôn ngữ của thi phẩm này. Chẳng hạn, một ngôn ngữ giản dị. Một ngôn ngữ bám sát đời sống. Một ngôn ngữ khoẻ khoắn chắc nịch. Một ngôn ngữ rất gần với lời thường của người lính v.v Đó đều là những vẻ đẹp thực sự. Tôi muốn nói đến một khía cạnh khác thuộc về cách tổ chức ngôn ngữ hết sức ăn nhập với ý tưởng toàn bài: tính cặp đôi. Bài thơ viết về tình đồng chí, nhân vật trung tâm là một cặp đồng chí, thì còn đặc tính nào ăn ý cho bằng tính cặp đôi?
Lớp từ diễn tả ý niệm cặp đôi chiếm vị thế ưu tiên. Cặp đại từ: anh - tôi luôn được dùng sóng đôi, rồi các hình ảnh, các vế câu thường song hành, song đôi để gợi ý niệm về sự bình đẳng gắn bó: quê hương anh - làng tôi, anh với tôi, tôi với anh, áo anh - quần tôi... Lớp từ diễn tả sự mật thiết, gắn kết của tình bằng hữu, tình đồng đội, tình tri kỷ: đôi, bên, sát, chung, nắm... Có những trường hợp mật độ đôi như thế rất dày, nhưng vẫn rất tự nhiên, nhuần nhuyễn :
Súng / bên súng // đầu / sát bên đầu
          Ta có thể thấy hai vế lớn của câu đi thành cặp đôi, đã đành, mà ngay trong từng vế lớn ấy, các vế nhỏ cũng cặp kè từng đôi gắn bó với nhau!
Từ “đôi” ở đây thật ý nhị, súc tích: đôi người xa lạ, đôi tri kỷ. Chẳng phải thế sao? Về số lượng, nó vẫn chỉ hai đối tượng, hai con người, như từ “hai”. Tuy nhiên, “hai” là trung tính, hai đối tượng được nói đến không nhất thiết phải chặt chẽ, mà thường nghiêng về ngẫu nhiên, rời rạc. Còn “đôi” vừa mang ý niệm số lượng, vừa bao hàm ý niệm quan hệ. Hai đối tượng phải có mối gắn bó khăng khít, hữu cơ, không thể tách rời thì mới là “đôi”. Trong đó, từng đối tượng lẻ chỉ được là mình khi đi thành đôi, xé lẻ ra, nó không còn thực là mình nữa. Ví như: “đôi mắt”, “đôi tay”, “đôi gò má”, “đôi gò bồng đảo”, “đôi đũa”, “đôi hoa tai” v.v Ta hiểu vì sao, Chính Hữu không dùng “hai” khi họ là “tri kỷ”, đã đành, mà ngay khi họ hãy còn là người “xa lạ”, cũng không dùng “hai”, cứ nhất thiết phải “đôi”. Dường như trong cảm nhận đầy tin yêu về con người và cuộc sống, thì trong những cá thể ấy, dù lúc đương còn xa lạ đối với nhau, thì từng người đã sẵn mang tâm nguyện được gắn kết, nghĩa là sẵn mang những cái mầm để sau này thành “đôi” rồi vậy. 
Nhưng đáng nói hơn cả vẫn là cách dùng thành ngữ và tổ chức ngôn từ theo phong cách thành ngữ. Chính Hữu đã dùng khá nhiều thành ngữ và cụm từ theo lối thành ngữ: Nước mặn đồng chua, Giếng nước gốc đa, Rừng hoang sương muối, Đầu súng trăng treo Trong bài thơ, ta đã thấy hệ thống sự vật thường đi thành cặp đôi khá phổ biến: anh - tôi, súng bên súng, đầu bên đầu, áo - quần, tay nắm bàn tay Thì những cặp hình ảnh trong các cụm thành ngữ trên đây lại bổ sung thêm vào đội ngũ đông đảo những cặp đôi ấy, khiến cho tính cặp đôi nổi hẳn lên như một phong cách ngôn ngữ đặc thù của thi phẩm. Điều thú vị là, nhìn kĩ còn thấy, sự vật trong các thành ngữ này không chỉ luôn gắn với nhau thành cặp thành đôi. Mà quan hệ của chúng cũng nghiêng về mối tương đồng. Cho nên chúng gợi được rất nhiều về mối tương thân tương ái của những người đồng chí. 
Ta không khỏi ngỡ ngàng về sự ý nhị khi thi sĩ dùng thành ngữ Giếng nước gốc đa. Cặp hình ảnh này vừa là biểu tượng của tình quê hương, vừa là biểu tượng của tình đôi lứa. Những người lính ra trận, không chỉ quê hương trông đợi mà người yêu cũng trông mong. Dùng thành ngữ ấy, tâm lý của những người nông dân mặc áo lính hiện lên thật tế nhị. Họ thường ngại ngần, ngượng ngập khi phải nói đến chuyện tình yêu của mình, dù đang trò chuyện với bạn thân đi nữa. Vì thế, với thành ngữ giếng nước gốc đa, tình yêu đôi lứa của họ đã nép sau tình quê hương một cách an toàn!
Tuy nhiên, đặc sắc hơn cả, vẫn là câu kết hoàn toàn viết theo lề lối thành ngữ:
 Đầu súng trăng treo 
          Câu thơ cũng gồm hai vế với hai hình ảnh. Ngoài sự chặt chẽ vốn có mà phong cách thành ngữ đem lại cho cụm từ này, tự nó cũng còn là một kiến trúc với một trật tự không thể đảo ngược, xét cả về hình ảnh lẫn âm thanh. Trước hết là trật tự hình ảnh. Một thành ngữ bốn tiếng, đôi khi hai vế có thể hoán đổi khá linh hoạt mà không ảnh hưởng lắm đến nghĩa của nó. Ví như Rồng bay phượng múa đảo thành Phượng múa rồng bay. Xem ra ở đây, chỉ có thể là Đầu súng trăng treo, súng trước trăng sau, mà không thể ngược lại. Vì sao ư? Là câu kết, nó đem lại cho mạch vận động của bài thơ một bất ngờ: toàn bài hầu như không có chi tiết sự vật nào thuộc về ánh sáng, khiến người đọc có cảm giác đang đi trong cõi âm u của dòng hồi ức về quá khứ của người lính, thì đến đây, ánh sáng đột hiện với vầng trăng treo. Vầng trăng càng ở vị trí chót cùng của bài thơ thì ý nghĩa càng giàu, bất ngờ càng lớn. Vầng trăng vừa là kết tinh sáng đẹp nhất của tình đồng chí, vừa toả sáng lên toàn bài, tô điểm cho thế giới của tình đồng chí ấy. 
Song song với nó là trật tự âm thanh. Trong thành ngữ bốn tiếng, bao giờ cũng có sự đắp đổi về âm thanh giữa hai vế. Vế này bằng thì vế kia trắc. Và cũng thường hoán vị được cho nhau. Trường hợp câu kết này, thì khác. Xem chừng, trật tự ấy là tối ưu. Nhất thiết phải là Đầu súng trăng treo, trắc trước bằng sau. Bởi vì, có như vậy, bài thơ mới kết thúc bằng thanh bằng. Thanh bằng êm nhẹ, gợi được cảm giác nhẹ nhàng, êm ả. Nó mở ra một không gian đêm trăng thoáng sáng toả lan. Quan trọng hơn, nó gợi được sự thanh thản trong tâm hồn những người lính mà niềm tin cậy vào tình đồng chí sâu nặng và cao cả vừa đem đến cho họ. 
Quan hệ hướng ngoại giữa câu kết với chỉnh thể như vậy đã là đáng kể. Nhưng sẽ còn đáng nói hơn chút nữa, khi xem xét cấu trúc nội tại của nó từ trật tự biểu tượng. Đọc câu kết, từ góc độ biểu tượng, có thể thấy những cặp tương ứng với các lớp nghĩa tượng trưng: đầu súng - trăng treo, chiến tranh - hoà bình, hiện tại - tương lai, hiện thực - lãng mạn, thực tại - mơ ước...
	Tóm lại, đẻ dạy thành công một tác phẩm văn học thì phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng quan trọng nhất là người GV phải làm chủ được kiến thức nám được trọng tâm của bài và HS phải chủ động tiếp nhận bằng sự tư duy của chính mình nhờ sự hướng dẫn gợi mở của HS. Ngoài ra các phương pháp dạy học cũng góp phần không nhỏ vào sự thành công tiết dạy.
	Vì vậy trên đây là những định hướng mang tính chủ quan cá nhân, rất mong sự góp ý chân thành của các thầy cô giáo trong tổ văn để làm cho bài lí luận về tác phẩm Đồng Chí của Chính Hữu được hoàn chỉnh hơn về nội dung và hình thức. 

Tài liệu đính kèm:

  • docTham luan bai Dong chi.doc