“Văn học là nhân học” văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người.
Là một môn học thuộc nhóm KHXH môn văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới môn học khác và ngược lại các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống.
Phòng giáo dục đào tạo huyện ý yên Trường thcs yên phương Sáng kiến dự thi cấp huyện Báo cáo sáng kiến “một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm ở trung học cơ sở” Tác giả: Đặng Thị Nhài Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Văn - Địa Chức vụ: Giáo viên Nơi công tác: Trường THCS Yên Phương ý Yên, tháng 11 năm 2011 Thông tin chung về sáng kiến 1.Tên sáng kiến: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm ở THCS 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Trong dạy và học văn Trường THCS Yên Phương 3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ năm học 2007 – 2008 đến nay 4. Tác giả Họ và tên: Đặng Thị Nhài Năm sinh: 1981 Nơi thường trú: Yên Chính - ý Yên - Nam Định Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Văn - Địa Chức vụ công tác: Giáo viên Nơi làm việc: Trường THCS Yên Phương Địa chỉ liên hệ: Trường THCS Yên Phương - ý Yên - Nam Định Điện thoại: 03503.824.815 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trường THCS Yên Phương Địa chỉ: Trường THCS Yên Phương - ý Yên - Nam Định Điện thoại: 0350.825.815 Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm ở TRUNG HọC CƠ Sở I - Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến. “Văn học là nhân học” văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Là một môn học thuộc nhóm KHXH môn văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới môn học khác và ngược lại các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống. Môn văn trong nhà trường THCS chia làm ba phân môn: Văn, Tiếng việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phân môn Tập làm văn là phân môn “nhẹ kí” nhất. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: “Dạy văn là chủ yếu dạy cho học sinh diễn tả cái gì mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ, chính xác, làm nổi bật điều mình muốn nói” (Dạy văn là cả một quá trình rèn luyện toàn diện nghiên cứu. Giáo dục số 28, 11/ 1973). Trong những năm giảng dạy bộ môn ngữ văn 7, tôi nhận thấy mặc dù biểu lộ tình cảm, cảm xúc là một nhu cầu thiết yếu của con người nhưng học sinh chưa biết cách bộc lộ cảm xúc của mình “để khơi gợi lòng đồng cảm nơi người đọc”(Văn 7 tập 1). Khi hành văn các em còn lộn xộn chưa phân biệt rõ ràng, rạch ròi giữa văn biểu cảm với các thể loại khác: miêu tả, tự sự. Chính vì thế, điểm các bài kiểm tra và điểm trung bình môn văn của các em còn thấp. Thực tế đó quả là đáng lo ngại. Thực trạng vấn đề này ra sao? Cần phải làm gì để nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm cho học sinh THCS nhất là các em lớp 7. Đó là những vấn đề tôi trăn trở, day dứt, muốn cùng được chia sẻ với các đồng nghiệp trong sáng kiến kinh nghiệm này. II - Thực trạng. 1 - Cơ sở lí luận. Văn biểu cảm là loại văn thể hiện nội tâm, tâm trạng của người viết. Ngồi trước trang giấy trắng, nếu tâm hồn trống rỗng không cảm xúc, đầu óc mông lung, không rõ ý nghĩ thì người viết không thể có được một bài văn biểu cảm có hồn. Lúc đó, bài văn hoặc khô khan nhạt nhẽo, ngắn ngủi hoặc giả tạo vay mượn ý. Người giáo viên khi dạy văn THCS nói chung, văn biểu cảm nói riêng, ngoài nắm kiến thức, phương pháp lên lớp còn cần có một trái tim, một tâm hồn sống cùng tác giả, tác phẩm. Để dạy và học tốt văn biểu cảm ở THCS, người dạy và người học cần nắm vững đặc điểm và yêu cầu của văn biểu cảm. Loại văn bản này trước đây đã có học dưới nhan đề là "Tập phát biểu cảm nghĩ" đối với tác phẩn văn học (lớp 6) và "phát biểu cảm nghĩ nhân vật văn học" (lớp 7). Các kiểu bài đó đã thu hẹp phạm vi phát biểu cảm nghĩ vào văn học, một phạm vi quá hẹp, tách rời mọi lĩnh vực khác của đời sống. Bài văn biểu cảm trong chương trình này đã khắc phục những khuynh hướng trên và đã đặt lại vấn đề. Phạm vi biểu cảm rộng hơn cảm nghĩ. Cảm nghĩ chỉ là một dạng của văn biểu cảm, đó là biểu cảm kết hợp với nghị luận. Còn biểu cảm là một lĩnh vực rộng lớn, tuy không tách rời với suy nghĩ, nhưng gắn với toàn bộ đời sống tình cảm, cảm xúc, sự đánh giá và nhu cầu biểu cảm của con người: từ cảm xúc đối với người thân trong gia đình đến cảm xúc đối với bạn bè, thầy cô; từ tình cảm đồ vật, phong cảnh làng quê đến tình yêu tổ quốc; từ tình cảm đối với các giá trị đạo đức đến văn học nghệ thuật... Học loại văn bản này, học sinh có dịp trau dồi kỹ năng biểu đạt mọi cảm xúc, tình cảm trong cuộc sống. 2 - Cơ sở thực tiễn. Qua những năm giảng dạy chương trình ngữ văn 7, tôi nhận thấy kỹ năng nhận diện các phương thức biểu đạt trong văn bản, kỹ năng viết, bộc lộ cảm xúc trong bài tập làm văn của một bộ phận học sinh còn yếu. Khi viết bài tập làm văn số 2 với đề bài "Loài cây em yêu" dù mới học và hình thành kỹ năng tạo lập văn bản xong nhưng học sinh không phân biệt được văn miêu tả và văn biểu cảm nên bài viết không phải viết về thái độ và tình cảm của mình đối với một loài cây cụ thể mà tả về loài cây đó. Hoặc khi viết bài tập làm văn số 3 đề yêu cầu "Cảm nghĩ của em về hình ảnh người bà thân yêu của mình". Học sinh viết "Bà nội hay thức khuya dậy sớm để làm việc mà tối nội chưa làm. Bà thường đi làm thuê để kiếm tiền nuôi chúng em. Em thấy vậy bảo bà nội hay là bà đừng đi làm thuê nữa chuyển sang nấu sôi đi. Nội suy nghĩ một hồi lâu rồi nói, đó cũng là một ý kiến hay". Liệu khi đọc đoạn văn trên, các đồng nghiệp của tôi có cho rằng, đó là một đoạn văn biểu cảm? Toàn bài viết của em học sinh đó toàn là những lời văn, đoạn văn tương tự như thế. Cũng với đề bài như trên, một học sinh khác viết "Cảm nghĩ của em về bà là một người bà yêu mến con cháu". Các em cảm nhận và viết văn như nghĩa vụ, làm qua loa cho xong rồi đem nộp. Kể cả học sinh khá dù cảm và hiểu được yêu cầu của đề, xác định đúng hướng làm bài nhưng kể vẫn nhiều hơn biểu cảm. III - Các giải pháp. 1 - Vấn đề đặt ra. Khi đặt ra vấn đề “làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm ở bậc THCS” tôI muốn các đồng nghiệp chia sẻ cùng tôi những kinh nghiệm giảng dạy, trao đổi bàn luận để tìm ra biện pháp thiết thực, khả thi nhất, giải quyết triệt để tình trạng học sinh chỉ chú ý đến môn học tự nhiên hơn môn học xã hội, bộc lộ tình cảm, cảm xúc một cách hạn chế. Vấn đề đặt ra của người viết sáng kiến kinh nghiệm này là mỗi giáo viên văn sẽ đào tạo cho đất nước những thế hệ học sinh, không chỉ thành thục về kĩ năng mà còn giàu có về cảm xúc, có tâm hồn trong sáng, nhân ái, biết vươn tới Chân - Thiện - Mĩ. 2 - Đề tài nghiên cứu. Thực tế cho thấy, trong việc học ngữ văn, hiện nay học sinh chủ yếu gặp khó khăn trong phân môn Tập làm văn. Các em vẫn rất lúng túng trước một đề Tập làm văn, từ khâu lập dàn ý đến khâu sáng tạo một bài văn. Nguyên nhân có từ nhiều phía, tuy nhiên một trong những nguyên nhân chính là khâu rèn kĩ năng thực hành Tiếng Việt của các em chưa được chú ý đúng mức, ngay từ những năm Tiểu học. Các em rất thụ động trước cách giải quyết các yêu cầu nêu ra của đề bài, thụ động tiếp thu bài mẫu, mặt khác trong cuộc sống, các em chưa có ý thức tích luỹ tri thức, làm giàu vốn liếng phục cho việc viết thành công một bài văn. Từ đó dẫn đến tình trạng học sinh chưa nhận thức được yêu cầu của đề, chưa tự tin trong suy nghĩ và rất hạn chế trong việc viết văn. Từ thực tế giảng dạy bộ môn ngữ văn lớp 7, tôi mạnh dạn đưa ra đề tài nghiên cứu "Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm THCS", tôi hi vọng rằng sẽ giúp giáo viên và học sinh khắc phục phần nào những khó khăn trong dạy và học phân môn Tập làm văn. 3 - Phạm vi nghiên cứu. Phân môn Tập làm văn là một phân môn quan trọng trong bộ môn ngữ văn trong nhà trường ở các bậc học. Mục tiêu cụ thể của môn học, ở phần kiến thức là: “Nắm được những tri thứcvà các kiểu văn bản thường dùng: văn bản tự sự, văn bản miêu tả, vă bản biểu cảm, văn bản thuyết minh, văn bản điều hành; nắm được những tri thức thuộc cách thức lĩnh hội và tạo các kiểu văn bản đó”. Phần kĩ năng trong mục tiêu môn học cũng được quy định rõ: “Có kĩ năng nói và viết Tiếng Việt, đúng chính tả, đúng từ ngữ, đúng cú pháp biết cách sử dụng các thao tác cần thiết để tạo lập các kiểu văn bản được học. Biết vận dụng các kiểu văn bản được học phục cho việc học tập ở nhà trường, và phục đời sống gia đình xã hội”. Với những mục tiêu cụ thể về kiến thức và kĩ năng như thế, trong sáng kiến kinh nghiệm này tôi chỉ đề cập đến một kiểu văn bản biểu cảm trong trương trình nữ văn lớp 7 với các nội dung sau: - Tìm hiểu chung về văn biểu cảm. - Đặc điểm của văn biểu cảm. - Đề văn biểu cảm và cách làm bài văn biểu cảm. - Cách lập ý của bài văn biểu cảm. - Các yếu tố tự sự miêu, tả trong văn biểu cảm. - Cách làm một bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học. 4 - Phương pháp nghiên cứu. a - Đối với người dạy: Đa số giáo viên tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh nhưng vẫn còn mặt hạn chế sau: - Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao. - Do điều kiện khách quan, nên việc sử dụng đồ dùng dạy học phương pháp trực quan vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu baì của học sinh. - Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch nguồn cảm xúc ẩn sau mỗi trái tim người học. - Do sĩ số lớp đông nên rất khó cho giáo viên trong việc theo sát, kèm cặp từng học sinh trong mỗi tiết dạy. b - Đối với học sinh: - Một số học sinh vì lười học, chán học nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học văn. - Đa số các em lười học không bao giờ đọc sách kể cả văn bản trong sách giáo khoa. - Đời sống văn hoá tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí như : xem ti vi, chơi game ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học bị lôi cuốn xao nhãng việc học. 5 - Giải pháp. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng đánh giá rất cao lứa tuổi học sinh trong nhà trường như sau: “Lứa tuổi từ 7 đến 17 là rất nhạy cảm, thông minh lạ lùng lắm”. Từ thực tế giảng dạy tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm ở bậc THCS như sau: a - Đối với giáo viên: a.1- Ngoài một số phương pháp tích cực trong dạy học phân môn Tập làm văn như: phương pháp dạy Tập làm văn thông qua hoạt động, phương pháp trực quan, hình thức vấn đáp, thảo luận giáo viên cần vận dụng sáng tạo một số phương pháp khác như: phương pháp đóng vai, phương pháp sử dụng trò chơi học tập điều này sẽ gây hứng thú cho học sinh trong học tập. a.2- Dù dạy văn biểu cảm về sự vật con người hay văn biểu cảm về tác phẩm ... nhận thức C - Các phương pháp và kĩ thuật dạy học: học theo nhóm, động não, liên tưởng, tưởng tượng. D - Tiến trình lên lớp. I - ổn định tổ chức. II - Kiểm tra bài cũ: Em hãy nêu các bước tạo lập văn bản? Đáp án: - Định hướng văn bản - Tìm ý và sắp xếp ý thành bố cục. - Diễn đạt các ý trong bố cục thành câu, đoạn, văn bản. - Kiểm tra lại văn bản đã tạo ra III - Bài mới. * Học sinh đọc những câu ca dao /71. Mỗi câu ca dao trên thổ lộ tình cảm, cảm xúc gì ? - Câu ca dao 1: Thổ lộ tình cảm, cảm xúc về nỗi đau của con chim cuốc không được ai đoái hoài, đồng thời cũng là nỗi cảm thương đối cới tình cảnh vô vọng của con người. - Câu ca dao 2: Biểu lộ cảm xúc về niềm hạnh phúc của người con gái được đứng giữa cảnh đẹp của đồng quê. Người ta thổ lộ tình cảm để làm gì ?. - Các bài ca dao thổ lộ nhằm khêu gợi sự đồng cảm của người đọc, làm cho người đọc cảm nhận được cảm của người viết. Theo em, khi nào thì con người cảm thấy cần làm văn biểu cảm. - Người ta có nhu cầu biểu cảm khi trong lòng có một cảm xúc gì về cuộc sống muốn được bộc lộ với người khác. Trong thư từ gửi cho người thân hay bạn bè, em có thường biểu lộ tình cảm không ?. - Thư từ là loại văn bản đòi hỏi tính biểu cảm rất cao. Người ta biểu cảm bằng những phương tiện nào ?. - Những bức thư, bài thơ, bài văn là các thể loại văn biểu cảm. - Văn biểu cảm chỉ là một trong vô vàn cách biểu cảm của con người (ca hát, vẽ tranh, múa nhảy, đánh đàn, thổi sáo) => sáng tác văn nghệ nói chung đều có mục đích biểu cảm. Văn biểu cảm viết ra nhằm mục đích gì ?. Văn biểu cảm gồm những thể loại nào ?. * GV: cho học sinh đọc hai đoạn văn trong sgk/72 Hai đoạn văn trên biểu đạt những nội dung gì? - Đoạn 1: Trực tiếp biểu hiện nỗi nhớ và nhắc lại những kỉ niệm. Trong thư từ nhật kí người ta thường biểu cảm theo lối này. - Đoạn 2: Biểu hiện tình cảm gắn bó với quê hương đất nước. Nội dung ấy có đặc điểm gì khác so với nội dung của văn bản tự sự và miêu tả? - Cả hai đoạn văn đều khác tự sự và miêu tả thông thường. Nó chưa có nội dung thật hoàn chỉnh, song đều thể hiện rõ tình cảm và tâm trạng của người viết. * GV: Cả hai đoạn văn đều không kể một chuyện gì hoàn chỉnh, mặc dù có gợi lại những kỉ niệm. Đặc biệt đoạn 2 tác giả sử dụng biện pháp miêu tả, từ miêu tả mà liên tưởng ,gợi ra những cảm xúc sâu sắc. * Câu hỏi thảo luận nhóm. Có ý kiến cho rằng tình cảm, cảm xúc trong văn biểu cảm phải là tình cảm, cảm xúc thấm nhuần tư tưởng nhân văn. Qua hai đoạn văn trên em có tán thành ý kiến đó không? Vì sao? - Đại diện nhóm trình bày - Nhóm khác nhận xét Giáo viên đưa đáp án Tán thành ý kiến trên.Vì nếu không là tình cảm, cảm xúc thấm nhuần tư tưởng nhân văn thì không đạt được mục đích biểu cảm thật sự. Em có nhận xét gì về phương thức biểu đạt tình cảm, cảm xúc ở hai đoạn văn trên ?. - Đoạn 1: Biểu cảm trực tiếp (nói về những kỷ niệm nhớ thương với bạn) thường gặp trong thư từ văn chính luận. - Đoạn 2: Biểu cảm gián tiếp (thông qua việc miêu tả tiếng hát của cô gái trong đêm khuya) thường gặp trong tác phẩm văn học. Tình cảm trong vă biểu cảm được biểu hiện như thế nào ?. Văn biểu cảm có những cách biểu hiện nào ?. * Học sinh đọc ghi nhớ. Học sinh đọc hai đoạn văn trong SGK. So sánh hai đoạn văn trên và cho biết đoạn nào là văn biểu cảm. Vì sao ?. Hãy chỉ ra nội dung biểu cảm của đoạn văn ấy ?. I - Nhu cầu biểu cảm và văn biểu cảm. 1 - Nhu cầu biểu cảm của con người. * VD: Trang 71 - Văn biểu cảm viết ra nhằm biểu đạt tình cảm, cảm xúc, sự đánh giá của con người đối với thế giới xung quanh khêu gợi lòng đồng cảm nơi người đọc. - Văn biểu cảm gồm các thể loại văn học: thơ trữ tình, cao dao trữ tình, tuỳ bút. 2 - Đặc điểm chung của văn biểu cảm. * VD: Sgk/72 - Tình cảm trong văn biểu cảm là những tình cảm đẹp thấm nhuần tư tưởng nhân văn. - Có hai cách biẻu hiện: Biểu cảm trực tiếp (tiếng kêu, lời than); Biểu cảm gián tiếp (tự sự, miêu tả). * Ghi nhớ: SGK trang 73. II - Luyện tập. 1 - Bài 1trang 73. - Đoạn văn b là văn biểu cảm vì nội dung của đoạn thể hiện tình cảm yêu thích vẻ đẹp dân dã, súc sống tiềm tàng và khoẻ khoắn của hoa hải đường. - Đoạn văn sử dụng yếu tố tưởng tượng và lời văn khêu gợi: "Hoa hải đường rạng rỡ, nồng nàn nhưng không có vẻ gì là yểu điệu thục nữ, cánh hoa khum khum như muốn phong lại cái nụ cười má lúm đồng tiền". IV - Củng cố: Thế nào là văn biểu cảm ?. V - Hướng dẫn về nhà: - Nắm chắc nội dung bài học. - Làm bài tập 2,3. - Soạn bài "Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra". IV- Hiệu quả do sáng kiến đem lại. Có lẽ trong nhà trường không có môn khoa học nào có thể thay thế được môn văn. Đó là môn học vừa hình thành nhân cách vừa hình thành tâm hồn. Trong thời đại hiện nay, khoa học kinh tế phát triển, môn văn sẽ giữ lại tâm hồn con người, giữ lại cái cảm giác nhân văn để con người tìm đến với con người, trái tim cùng nhịp đập trái tim. Qua một năm rút kinh nghiệm và thay đổi, áp dụng những giải pháp trên tôi nhận thấy chất lượng dạy và học văn biểu cảm khối 7 năm học 2011- 2012 được nâng lên rõ rệt. ở phương diện là một giáo viên đứng lớp giảng dạy, tôi thấy mình vững vàng hơn trong chuyên môn, tự tin say mê hơn với sự nghiệp trồng người. Ai đó từng nói: “ Nghiệp văn là nghiệp khổ” nhưng tôi chẳng thấy khổ chút nào. Ngược lại, tôi thấy mình sung sướng hạnh phúc vì được cống hiến, góp sức mình làm đẹp cho đời. Đối với các em học sinh, các em bước đầu đã ý thức được tầm quan trọng của môn văn, biết bộc lộ cảm xúc của mình đúng cách, đúng nơi, đúng lúc. Số lượng học sinh có kĩ năng làm văn biểu cảm tốt khá nhiều. Cụ thể thống kê điểm trung bình môn văn tám tuần học kì I năm học 2011- 2012 là rất khả quan * Trước khi áp dụng sáng kiến. Học sinh khảo sát Giỏi Khá Trung bình Yếu - Kém 42 15% 27% 58% * Sau khi áp dụng sáng kiến. Học sinh khảo sát Giỏi Khá Trung bình Yếu - Kém 42 7% 28% 42% 22% Trên đây là một số giải pháp mà bản thân tôi thấy tự nên làm để nâng cao chất lượng bài làm cho học sinh lớp 7 Trường THCS Yên Phương năm học 2011- 2012 và tiếp tục tìm hiểu nghiên cứu trong những năm tiếp theo. Mặc dù kết quả chưa khả quan nhưng có khả năng thực thi. Nó đánh dấu trong quá trình học hỏi đúc rút kinh nghiệm của mình. Để đạt được kết quả cao hơn nữa tôi nghĩ rằng mình còn phải cố gắng nhiều, học hỏi nhiều ở đồng nghiệp. V- Đề xuất và kiến nghị. 1- Đối với phụ huynh. - Quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình, đầu tư nhiều về thời gian cho con cái học tập. - Hướng dẫn và tạo cho con thói quen đọc sách; chia sẻ tư vấn, định hướng, bồi dưỡng tâm hồn cho con để các em có nhiều thuận lợi trong việc bộc lộ và phát triển cảm xúc, tình cảm trong cuộc sống nói chung và trong việc làm văn biểu cảm nói riêng. - Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên bộ môn văn để tìm hiểu, nắm bắt kịp thời tình hình học tập của con em mình. 2- Đối với nhà trường. - Bổ xung các tác phẩm đoạn trích được học. Chân dung một số nhà thơ lớn. Các tài liệu nâng cao cho giáo viên và học sinh. - Có kế hoạch tham mưu với cấp trên có chế độ đãi ngộ hợp lí đối với giáo viên giảng dạy phụ đạo thêm cho học sinh yếu kém môn văn . 3- Đối với phòng giáo dục. - Tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên bộ môn văn trong từng năm học để giáo viên có dịp trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra biện pháp tối ưu, tích cực, nâng cao chất lượng dạy học môn văn. - Đầu tư trang thiết bị dụng cụ trực quan, đặc biệt là đầu tư công nghệ thông tin để hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy văn. 4- Đối với địa phương. - Quản lí chặt chẽ các điểm kinh doanh Internet và các điểm dịch vụ không lành mạnh, làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. - Quan tâm sát sao đến chất lượng giáo dục ở địa phương, đầu tư cơ sở vật chất kịp thời phục vụ cho việc dạy và học của nhà trường. Thời gian nghiên cứu chưa nhiều nên tôi rất mong có sự nhận xét, đóng góp của đồng nghiệp để đề tài của tôi có chất lượng hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tác giả sáng kiến Đặng Thị Nhài Cơ quan đơn vị áp dụng sáng kiến (xác nhận đánh giá, xếp loại) ............................................................................................................................................... ............................................................................................................................................... ............................................................................................................................................... ............................................................................................................................................... ............................................................................................................................................... ............................................................................................................................................... ............................................................................................................................................... (ký tên, đóng dấu) Phòng Giáo Dục Đào Tạo (xác nhận, đánh giá, xếp loại) ............................................................................................................................................... ............................................................................................................................................... ............................................................................................................................................... ............................................................................................................................................... ............................................................................................................................................... ............................................................................................................................................... ............................................................................................................................................... (LĐ phòng ký tên, đóng dấu) Tài liệu tham khảo - Sách giáo khoa Ngữ văn 7 tập 1. - Sách giáo viên Ngữ văn 7 tập 1. - Thiết kế bài soạn ngữ văn 7 tập 1. - Phương pháp dạy học văn ở trường THCS theo hướng tích hợp và tích cực. Đoàn Thị Nhung - nhà xuất bản Đại Học Quốc Gia Thành Phố HCM. - Dạy học Tập làm văn ở truuường THCS - Nguyễn Trí - Nhà xuất bản Giáo Dục - Văn biểu cảm trong chương trình Ngữ văn THCS. Nguyễn Trí, Nguyễn trọng Hoàn - Nhà xuất bản Giáo Dục.
Tài liệu đính kèm: