Đề tài “ Sống chết mặc bay” bức tranh tương phản về cuộc sống và giá trị nhân đạo của tác phẩm

Đề tài “ Sống chết mặc bay” bức tranh tương phản về cuộc sống và giá trị nhân đạo của tác phẩm

 I. Đặt vấn đề:

- Tình người là giá trị vĩnh hằng của đời sống mà nhân loại đang hướng tới

- Tác phẩm “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn là một bức tranh hiện thực rất sinh động và tương phản giữa hai cảnh đời trái nghịch nhau - cuộc sống và sinh mạng của người dân với cuộc sống vô đạo của bọn quan lại, mang đậm giá trị hiện thực, nhân đạo cao cả về tình người.

-Hình ảnh đối lập và sự đan cài giữa thực tế gian khổ của người dân đang chống chọi với thiên nhiên nghiệt ngã và cảnh sống hưởng thụ và vô trách nhiệm của bọn quan nha chính là giá trị nghệ thuật góp phần thể hiện giá trị nhân đạo của nhà văn.

 

doc 6 trang Người đăng linhlam94 Lượt xem 6518Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài “ Sống chết mặc bay” bức tranh tương phản về cuộc sống và giá trị nhân đạo của tác phẩm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DÀN Ý BÀI THUYẾT TRÌNH
A.  Tên đề tài: 
“ Sèng chÕt mÆc bay” 
 BÆÏC TRANH TÆÅNG PHAÍN VÃÖ CUÄÜC SÄÚNG VAÌ GIAÏ TRË NHÁN ÂAÛO CUÍA TAÏC PHÁØM 
 B.  Dàn ý của bài thuyết trình:
 * Dẫn nhập .
 I.  Đặt vấn đề:
- Tình người là giá trị vĩnh hằng của đời sống mà nhân loại đang hướng tới
- Tác phẩm “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn là một bức tranh hiện thực rất sinh động và tương phản giữa hai cảnh đời trái nghịch nhau - cuộc sống và sinh mạng của người dân với cuộc sống vô đạo của bọn quan lại, mang đậm giá trị hiện thực, nhân đạo cao cả về tình người.
-Hình ảnh đối lập và sự đan cài giữa thực tế gian khổ của người dân đang chống chọi với thiên nhiên nghiệt ngã và cảnh sống hưởng thụ và vô trách nhiệm của bọn quan nha chính là giá trị nghệ thuật góp phần thể hiện giá trị nhân đạo của nhà văn.
 II. Giải quyết vấn đề:
 1.    Luận điểm 1: Khái quát về tác giả, tác phẩm .
 2.    Luận điểm 2: Sự tương phản giữa hai bức tranh hiện thực trái ngược.
 2.1) Bức tranh về những người dân đang vật lộn, vất vả đấu tranh với 
 thiên nhiên .
 2.2) Cảnh quan phụ mẫu đang say sưa đắm chìm trong cờ bạc. 
Kết thúc vấn đề:
 1. Giá trị của tác phẩm .
 Đường nét tương phản độc đáo và sự đan cài giữa thực tế cuộc sống gian khổ của người dân và cảnh ăn chơi vô tâm của bọn quan lại phong kiến đã truyền cho người đọc lòng thương cảm , lay động trong ta tình thương và niềm tin ở con người. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo của .
 2. Nỗi niềm riêng em .
* Dẫn nhập
Kính thưa Ban giám khảo!
Kính thưa quý thầy cô giáo và các bạn học sinh thân mến!
 Em tên là : Lương Thị Trang  - Học lớp 7/2 – Trường THCS Lê Lợi
 Đến với Hội thi TTVH hôm nay, em xin chúc ban giám khảo, quý thầy cô giáo và các bạn học sinh sức khỏe. Em xin trình bày bài thuyết trình của mình với đề tài: 
 “ Sèng chÕt mÆc bay” 
 BÆÏC TRANH TÆÅNG PHAÍN VÃÖ CUÄÜC SÄÚNG VAÌ GIAÏ TRË NHÁN ÂAÛO CUÍA TAÏC PHÁØM 
 Thời gian là chiếc bóng vô hình, chiếc bóng ấy có thể phủ đen để xóa nhòa tất cả những gì thuộc về quá khứ. Nhưng chắc chắn một điều rằng, thời gian không thể xóa nhòa được những tình cảm yêu thương mà con người dành cho nhau.
I/ Đặt vấn đề :
Kính thưa quí thầy cô và các bạn !
Trong những tháng ngày qua, mỗi chúng ta không ai hết nỗi bàng hoàng, lo sợ trước cơn thịnh nộ của thiên nhiên dán xuống quê hương Miền Trung thân yêu của chúng ta. Một trận cuồng phong, đại hồng thuỷ kinh hoàng đã cuốn đi bao nhiêu là tài sản và sinh linh vô tội . Không cầm nỗi xót xa trước cảnh tượng đầy thương tâm của bao gia đình đã có người bị lũ cuốn trôi, bao con người không nhà cửa, không miếng ăn. Đến đây, ta có thể liên tưởng và hình dung những cảnh ngộ ấy đã từng xảy ra cho đồng bào ta ở Bắc bộ vào những năm đầu của thế kỉ trước – nạn lũ lụt, đê vỡ thường xuyên, đã làm cho nhiều người dân rơi vào cảnh màn trời chiếu đất, con xa cha, vợ xa chồng thật là đau xót. Trước một thực tế đầy thương tâm như vậy, thế mà những người được xem là “phụ mẫu” của dân lại thờ ơ vô trách nhiệm. Thật là đáng trách !
Kính thưa quí thầy cô và các bạn !
Ai đã từng có tuổi thơ cắp sách đến trường hẳn đều đã biết đến Phạm Duy Tốn, một nhà văn nổi tiếng của làng văn nước ta, đề tài những tác phẩm của ông thường là những bức tranh hiện thực sinh động về những cảnh tượng trái ngang, sự bất công vô lí diễn ra trong đời sống của con ngưòi lao động chân lấm tay bùn vào những năm đầu thế kỉ XX với một tình cảm đặc biệt, sự phẩn nộ trước những thế lực tàn nhẫn, thờ ơ vô trách nhiệm . Niềm xót thương cao cả ông dành cho con người, mà nhất là những con người nghèo khổ. Đặc biệt, qua những tác phẩm của mình, nhà văn đã để cho người đọc cảm nhận được rằng: “tất cả những điều tốt đẹp trên thế gian này đều thuộc về con người”. Tiêu biểu trong các sáng tác của Phạm Duy Tốn là truyện ngắn “Sống chết mặc bay”, - “Một bông hoa đầu mùa của truyện ngắn hiện đại VN”. 
II/ Giải quyết vấn đề :
 Luận điểm 1 : Khái quát về tác giả, tác phẩm :
 1) Tác giả :
 Trước hết, ta muốn biết Phạm Duy Tốn là con người như thế nào mà tấm lòng cao cả đầy sự cảm thương như thế ? 
 Nhà văn Phạm Duy Tốn (1881-1924) quê làng Phượng Vũ, huyện Thường Tín - Hà Tây. Sinh ra và lớn lên tại Hà Nội vào những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 – thời đại của các phong trào yêu nước như Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục đang phát triển mạnh mẽ với mục đích cải cách xã hội, mở mang dân trí. Bản thân ông cũng chính là một trong những người xin giấy phép mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục và giảng dạy tại đây cùng với các tên tuổi lớn như Phan Bội Châu, Lương Văn Can, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Văn Vĩnh Ngoài tên thật Phạm Duy Tốn, ông còn viết với các bút danh Ưu Thời Mẫn, Đông Phương Sóc, Thọ An. Một trong những người con của Phạm Duy Tốn là nhạc sĩ nổi tiếng Phạm Duy.
 Là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX. Truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của ông được coi là truyện ngắn đầu tiên viết theo lối Tây phương của văn học Việt Nam. Tác phẩm đã được ra mắt bạn đọc vào tháng 12 năm 1918 , trong hoàn cảnh mà nhân dân ta đang chịu khốn khổ bởi hai tròng áp bức bóc lột của thực dân Pháp và bọn quan lại phong kiến tay sai. Người dân đã bị bần cùng hoá bởi sự bóc lột, bởi cảnh thiên tai đói khổ ...
 2) Tác phẩm :
 “ Sống chết mặc bay” được coi là một trong những sáng tác mở đầu khuynh hướng văn học hiện thực ở nước ta. Tác giả lấy đề tài trong cuộc sống thực của xã hội đương thời, đó là cảnh hàng năm người nông dân ở đồng bằng Bắc bộ phải đương đầu với sự tàn phá dữ dội của thiên nhiên để bảo vệ cuộc sống chính mình. Cảnh dân phu hộ đê, chống với cơn lũ được tác tác giả miêu tả cụ thể. Bọn quan lại thường được mệnh danh là phụ mẫu của dân, bản chất thối nát, mất cả lương tri của bọn chúng, được ngòi bút hiện thực phơi bày, tố cáo. Thông qua hình tượng nhân vật quan huyện, tác giả đã cho người đọc hình dung được bộ mặt thật của bọn quan lại đương thời. Tính cách nhân vật được khắc hoạ rõ nét từ diện mạo, dáng điệu, ngôn ngữ phù hợp với tâm lí, tính cách của một tên quan hống hách, táng tận lương tâm. Kết cấu của truyện xây dựng trên sự phát triển của hai cảnh đối lập để làm nổi bật chủ đề . Về bút pháp miêu tả : không phải là bút pháp tượng trưng, ước lệ mà là cách miêu tả cụ thể, chi tiết và sống động.
 Luận điểm 2 : Sự tương phản giữa hai bức tranh hiện thực trái ngược giữa hai cảnh đời trong cuộc sống xã hội đương thời .
 2.1 ) Bức tranh về những người dân đang vật lộn, vất vả đấu tranh với thiên nhiên :
 Câu chuyện đưa lên trước mắt người đọc hai bức tranh đời hoàn toàn trái ngược nhau. Trước tiên đó là bức tranh về những người dân đang vất vả đấu tranh với thiên tai. Trong bốn thứ giặc: Thuỷ - hoả - đạo - tặc, nhân dân ta đã xếp giặc thuỷ - lũ lụt lên hàng đầu. Điều đó cho ta thấy sức mạnh của thiên nhiên to lớn và khủng khiếp như thế nào, đê vỡ thì tình cảnh sẽ nguy khốn ra sao. Chính vì thế mà “gần một giờ đêm” , dân phu kể hàng trăm nghìn con người vẫn đang vật lộn dưới trời mưa để cứu bằng được con đê. Không phải họ mới bắt đầu công việc mà họ đang tiếp tục chiến đấu “suốt từ chiều đến giờ”. Càng khuya khắt tình thế càng trở nên khó khăn hơn. Đáng lẽ giờ này họ phải được nằm ngủ trong ngôi nhà ấm cúng thì lại đang vắt kiệt sức và căng thẳng mệt mỏi đến cao độ. Đây đúng là một bức tranh hết sức lộn xộn, nhốn nháo. Trong cái âm thanh ầm ĩ của trống , của ốc thổi vô hồi, tiếng xô xác của những người gọi nhau, những con người mệt lử vừa đói vừa khát đang cố gắng một cách bất lực với nguy hiểm, kẻ thì thuổng người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vát tre, nào đắp nào cừ... “người nào người nấy lướt thướt như chuột lột”. Ngay từ những dòng chữ đầu tiên, ngôn ngữ miêu tả xác thực, sống động cùng nhịp điệu dồn dập gấp gáp, tác giả đã cuốn người đọc vào cái không khí đầy hỗn loạn ấy. Nhưng tất cả mọi cố gắng của con người chỉ là vô ích. Những từ láy “tầm tã”, “cuồn cuộn” nối tiếp nhau để chỉ sức nước đang đe doạ khúc đê đang núng thế và tính mạng của những người hộ đê ngày một gần; “Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước”. Hàng trăm nghìn con người vẫn còn quá nhỏ bé trước sức mạnh của thiên nhiên, khúc đê yếu kém sao có thể chống chọi lại với thế nước. Nên Phạm Duy Tốn than rằng : “Lo thay! Nguy thay !” thì người đọc cũng chỉ biết ngậm ngùi mà “Thương thay” !
 2.2 ) Cảnh quan phụ mẫu đang say sưa đắm chìm trong cờ bạc. 
 - Kính thưa quí thầy cô cùng các bạn thân mến !
 Đối lập gay gắt với bức tranh đời thứ nhất là bức tranh đời thứ hai được nhà văn miêu tả không kém phần chân thực và hấp dẫn. Trong khi muôn dân khốn khổ chìm trong nước thì viên quan phụ mẫu cùng nha lại, chánh tổng - những kẻ có nhiệm vụ chỉ đạo dân hộ đê lại đang say sưa đắm chìm trong cờ bạc. Bọn quan lại ấy được ngồi trong một cái đình “vững chãi”, “dầu nước to thế nữa, cũng không việc gì”. Quang cảnh thật tĩnh mịch và nhàn nhã. Trong ánh sáng của đèn, sự hầu hạ của lính tráng nha lệ, mọi người ung dung ngồi đánh tổ tôm. Nổi bật trên nền bức tranh nguy nga tráng lệ ấy là một nhân vật cũng đường bệ, uy nghi không kém quan phụ mẫu. Quan ngài thật là biết hưởng thụ, “Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quì ở dưới đất mà gãi”. Ngài bồi dưỡng cho việc bỏ sức lực ra đánh bài bằng “ bát yến hấp đường phèn”, khói bay nghi ngút, bỏm bẻm “ trầu vàng, cau đậu, rễ tía”. Đi chỉ đạo hộ đê mà ngài chẳng hề thay đổi cuộc sống, thói quen quí phái của mình, vẫn ống thuốc bạc, vẫn đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoái tai, ví thuốc, quản bút tăm bông. Cách quan đánh tổ tôm “ lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái, khi cười khi nói vui vẻ dịu dàng” thật xứng đáng với vị phúc tinh. Mặc dù rất lo cho tình hình đê điều bên ngoài đình nhưng ai cũng cố làm vừa lòng quan, khúm núm sợ sệt, tìm mọi cách để quan được vui. Trong khi“ Gần đó có sự nguy hiểm to, sắp sinh ra một cảnh nghìn sầu muôn thảm” cũng chẳng làm suy chuyển lòng đam mê cờ bạc nơi quan. Khi một người nhà quê vào báo tin đê vỡ, tức là quam mất hứng, tức là làm gián đoạn ván bài sắp ù to của quan, người nhà quê ấy đã bị quát một trận và bị đuổi cổ ra ngoài :
“ Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày”
Bao nhiêu trách nhiệm là tại dân, là tội của dân hết. Quan còn phải chơi hết cho nốt ván bài đã. Những dòng văn của tác giả thật tài tình. Càng về cuối truyện mạch văn càng ngắn, càng nhanh, cang lo lắng và cũng lại càng vững chãi. Dân cứ thét cứ kêu, cứ lênh đênh trên mặt nước. Còn vị quan phụ mẫu thì đúng lúc con đê kia vỡ lại là lúc được mùa. Quan ù và ù to chưa từng thấy. Phạm Duy Tốn viết :
 “ Trừ kẻ lòng lang dạ thú, còn ai nghĩ đến, ai mà chẳng động tâm, thương xót đồng bào huyết mạch”, kẻ lòng lang dạ thú ấy đã được “ Ù! Thông tôm chi chi nảy” ngay chính lúc đê vỡ. Trong niềm vui phi nhân tính, tên quan vô trách nhiệm sung sướng hả hê khi ù ván bài lớn giữa cảnh nghìn sầu muôn thảm sầu, khốn khổ của người dân. Đến đây, người đọc bức bối căng thẳng, ngột ngạt đến đỉnh điểm của sự căm ghét cực độ tên quan vô lại mất hết tính người. Càng xót thương cho người dân bị bỏ rơi, người đọc càng khinh bỉ tên quan phụ mẫu ấy .
 III/ Kết thúc vấn đề :
 Luận điểm 1: Khẳng định giá trị của tác phẩm :
 Bằng lời văn tả thực nhưng cũng vô cùng sinh động, bằng sự khéo léo trong việc đan xen kết hợp hai thủ pháp tăng cấp và tương phản, Phạm Duy Tốn đã phản ánh một cách chân thực sự đối lập hoàn toàn giữa cuộc sống và sinh mạng của nhân dân với cuộc sống của bọn quan lại lúc bấy giờ, mà kẻ đứng đầu là tên quan phủ lòng lang dạ thú đã cho người đọc thấu hiểu được một hiện thực trái ngang của hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Thông qua đó, nhà văn tố cáo thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm của bọn quan lại cầm quyền và gở gắm niềm thương cảm của mình vào cuộc sống lầm than cơ cực của nhân dân do thiên tai địch hoạ . Tấm lòng cao cả ấy của tác giả đã nói lên được giá trị nhân đạo của chính tác phẩm . 
 Luận điểm 2 : Nỗi niềm riêng em .
Kính thưa quí thầy cô cùng các bạn thân mến !
 Vô cùng cảm kích với tình cảm xót thương đầy giá trị nhân đạo của nhà văn Phạm Duy Tốn trước cuộc sống lầm than, cơ cực của người dân trước họa thiên nhiên và do thái độ vô trách nhiệm của bọn quan lại cầm quyền lúc bấy giờ để cho mỗi chúng ta cùng suy ngẫm . 
 Và những ngày qua, em biết có nhiều người không ngủ yên, nhiều người đã thở dài, lo lắng và gởi niềm yêu thương cho nhiều nơi trên thế giới đang bị động đất, sóng thần, mưa bão như Indonesia, Philippines, Ý, Ấn Độ cũng như đâu đó trên quê hương Việt Nam vẫn còn đang nhiều nỗi khổ, niềm đau!
 Riêng em, Trong những ngày Miền Trung bão lũ , gia đình mình may mắn không bị cảnh ngập chìm trong nước . Trong lòng luôn canh cánh niềm xót thương cho tất cả những gia đình có người thân bị lũ cuốn trôi, những bạn học trò không nơi nương tựa, không có miếng ăn, áo mặc Rất biết ơn những cô, chú , bác lãnh đạo Đảng và chính quyền đã kịp thời lo lắng cho nhân dân trước cảnh khốn cùng của thiên tai - Rất cảm phục những hình ảnh các bác cán bộ, bộ đội xả thân để cứu dân đang bị lũ cuốn, đến tận nơi để thăm hỏi đồng bào. Đặc biệt, đã tổ chức những hoạt động với chủ đề “Thương về miền Trung” để kêu gọi quyên góp cho đồng bào vùng bão lũ, đã có nhiều người sẻ chia bằng một ngày lương, một gói quà ... Một sự lan tỏa làm ấm lòng người sau cơn bão lũ và toát lên vẻ đẹp được truyền thừa từ bao đời nay của người dân Việt - đó là tinh thần tương thân, tương ái. Tục ngữ có câu: “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ” để biểu trưng cho tình đồng loại, tình người. Do đó, trước những nỗi đau của đồng loại, đồng bào chúng ta vô cảm, thờ ơ làm sao được ? Sự chung tay hôm nay của xã hội đã nói lên một điều: Lòng trắc ẩn của con người không bao giờ cạn, nó luôn được khơi lên trước những bi kịch thiên tai và nỗi đau của con người.
 Bài thuyết trình của em đến đây là hết. Một lần nữa em xin kính chúc quí thầy cô và tất cả các bạn luôn khỏe và hạnh phúc. Xin chân thành cảm ơn ! 
- Heát -

Tài liệu đính kèm:

  • docTHUYET TRINH VHOC 7.doc