Cùng với việc đổi mới chương trình sách giáo khoa, đổi mới phương pháp giảng dạy thì vấn đề về đổi mới trong kiểm tra, đánh giá là khâu hết sức quan trọng trong quá trình giảng dạy và học tập. Làm thế nào để kiểm tra, đánh giá được đúng trình độ, năng lực của học sinh và chất lượng giảng dạy vào những thời điểm cụ thể theo mục tiêu của chương trình môn học nói chung và của môn Toán nói riêng là một câu hỏi khó. Để giải quyết vấn đề này thì cùng với việc đổi mới về phương pháp giảng dạy phải có sự đổi mới thật sự ở khâu ra đề và đa dạng hóa hình thức kiểm tra, đánh giá. Tức là “Đổi mới mạnh mẽ cách thức kiểm tra, thi. Kiên quyết giảm tình trạng kiểm tra, thi với yêu cầu học sinh phải học thuộc lòng nhiều sự kiện, khái niệm, định lý; tăng cường các câu hỏi đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ, trả lời theo cách hiểu và vận dụng của riêng mình”.
ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH I. Đặt vấn đề Cùng với việc đổi mới chương trình sách giáo khoa, đổi mới phương pháp giảng dạy thì vấn đề về đổi mới trong kiểm tra, đánh giá là khâu hết sức quan trọng trong quá trình giảng dạy và học tập. Làm thế nào để kiểm tra, đánh giá được đúng trình độ, năng lực của học sinh và chất lượng giảng dạy vào những thời điểm cụ thể theo mục tiêu của chương trình môn học nói chung và của môn Toán nói riêng là một câu hỏi khó. Để giải quyết vấn đề này thì cùng với việc đổi mới về phương pháp giảng dạy phải có sự đổi mới thật sự ở khâu ra đề và đa dạng hóa hình thức kiểm tra, đánh giá. Tức là “Đổi mới mạnh mẽ cách thức kiểm tra, thi. Kiên quyết giảm tình trạng kiểm tra, thi với yêu cầu học sinh phải học thuộc lòng nhiều sự kiện, khái niệm, định lý; tăng cường các câu hỏi đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ, trả lời theo cách hiểu và vận dụng của riêng mình”. II. Giải quyết vấn đề 1. Một số khái niệm: Đánh giá là công cụ quan trọng, chủ yếu xác định năng lực nhận thức của người học, điều chỉnh quá trình dạy và học; là động lực để đổi mới phương pháp dạy học, góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng đào tạo con người theo mục tiêu giáo dục. “Đánh giá trong giáo dục là quá trình thu thập và lý giải kịp thời, chính xác những thông tin về hiện trạng nguyên nhân của chất lượng và hiệu quả giáo dục, về khả năng giáo dục căn cứ vào mục tiêu đào tạo và dạy học làm cơ sở cho những chủ trương biện pháp và hành động tiếp theo ”. “Đánh giá là quá trình hình thành những nhận thức, phán đóan về kết quả của công việc dựa vào sự phân tích những thông tin thu được, đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc.” Như vậy, đánh giá không đơn thuần là sự ghi nhận thực trạng từ việc thu thập thông tin mà còn là đề xuất những quyết định làm thay đổi thực trạng. Và đánh giá không phải chỉ là việc cho điểm bài làm cuối học kỳ, cuối năm của học sinh mà phải là hoạt động thu thập tất cả những sản phẩm do học sinh làm ra trong quá trình học, đó có thể là những bài viết, những tư liệu học sinh thu thập được, những hoạt động của học sinh trong quá trình thảo luận đánh giá không phải chỉ đo lường kết quả mà đòi hỏi phải đo lường những tiến bộ của học sinh trong từng giờ học. “Đánh giá kết qủa học tập của học sinh”, đó là “Quá trình xác định trình độ đạt tới những chỉ tiêu của mục đích dạy học, xác định xem khi kết thúc một giai đoạn, quá trình dạy học đã hình thành đến mức độ nào về kiến thức, kĩ năng và trình độ tư duy”. Từ đó tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên, nhà trường, các cấp quản lí giáo dục và cho bản thân học sinh để các em học tập ngày càng tiến bộ hơn. 2 Mục đích đánh giá Mục đích của đánh giá là: Làm sáng tỏ mức độ đạt được và chưa đạt được về các mục tiêu dạy học, tình trạng kiến thức, kỹ năng, thái độ của học sinh đối với yêu cầu của chương trình. Cụ thể là: - Giáo viên theo dõi tiến bộ của học sinh, tự đánh giá nội dung, phương pháp dạy của bản thân để từ đó điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học phù hợp. - Học sinh phát hiện những sai sót của bản thân để tự điều chỉnh các hoạt động - Cải tiến chương trình học - Làm rõ chất lượng daỵ học của nhà trường - Cung cấp những tư liệu hữu ích cho các công trình nghiên cứu khoa học 3. Nguyên tắc đánh giá Kết hợp nhiều hình thức đánh giá: giáo viên đánh giá học sinh, học sinh đánh giá lẫn nhau, học sinh tự đánh giá. Đánh giá trong nhiều thời điểm: thường xuyên, định kì, cuối kì Kết hợp loại câu hỏi tự luận, trắc nghiệm Đánh giá không chỉ là cho điểm (Kiểm tra đánh giá học sinh là hoạt động bắt buộc và quen thuộc đối với tất cả giáo viên đứng lớp. Nhưng phần lớn các giáo viên đều quan niệm, việc ra đề kiểm tra cho học sinh đơn giản là có điểm số ghi vào sổ điểm. Từ đó, có căn cứ để cuối học kỳ, cuối năm đánh giá học sinh. Nên nhớ: Mục đích chính của việc đánh giá là nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập, giáo viên phải xem đánh giá là quá trình và là một phần không thể thiếu trong hoạt động giảng dạy của mình. 4. Đổi mới kiểm tra, đánh giá 4.1 Đa dạng hóa các hình thức đánh giá Lâu nay dường như trong nhà trường phổ thông chúng ta chỉ quen với hai loại đánh giá như sau: - Đánh giá thường xuyên: KT miệng, 15’. - Đánh giá định kì: KT 45’ cuối học kì, thi vào THPT Như vậy, rõ ràng chúng ta chỉ đánh giá được một phần nào thực lực của học sinh và độ chính xác không cao. Người giáo viên cần có những hình thức đánh giá đa dạng hơn nhằm đánh giá thường xuyên những tiến bộ của học sinh trong mỗi giờ học tập. Tôi xin đưa ra một số hình thức kiểm tra, đánh giá nhằm kết hợp đan xen với các hình thức đánh giá truyền thống: Đó là giáo viên đánh giá học sinh, học sinh đánh giá lẫn nhau và học sinh tự đánh giá (những việc này chúng ta đã làm nhưng còn mang tính hình thức). * Giáo viên đánh giá học sinh (làm thường xuyên nhưng còn hạn chế) Có nhiều cách để giáo viên thực hiện điều này: - Đối với việc đánh giá tổng thể, giáo viên có thể đánh giá trực tiếp thông qua việc kiểm tra miệng, bài viết (bài kiểm tra) của học sinh. - Đối với việc đánh giá thường xuyên (chủ yếu thông qua hình thức thảo luận nhóm), giáo viên có thể đánh giá học sinh bằng ba cách sau: + Quan sát học sinh: khi học sinh thảo luận, giáo viên chú ý nhìn gương mặt, ánh mắt, thái độ học sinh đồng thời lắng nghe lời các em thảo luận để đo lường những diễn biến tình cảm cũng như mức độ hiểu vấn đề của các em. Nếu phát hiện học sinh nào có ý kiến độc đáo thì nên ghi lại để sau đó yêu cầu học sinh đó phát biểu trước lớp từ đó, có sự nhắc nhở, gợi ý hoặc giúp đỡ kịp thời. + Biện pháp thứ hai là cho học sinh thực hiện các hoạt động. Ví dụ: cho học sinh trình bày vấn đề bằng nhiều cách khác nhau như: nói (kênh tiếng) , ghi bảng, vẽ hình, mô tả bằng hình ảnh (kênh hình), sơ đồ, biểu đồ, hoặc diễn giải các ý chính trong bài, tóm tắt ý chính từng bước ... + Biện pháp khác là đặt câu hỏi, neâu vấn đề cho học sinh, nhóm học sinh thảo luận. Công việc rất quan trọng của giáo viên khi đánh giá học sinh là phải thu thập, lưu giữ và nhắc nhở học sinh lưu giữ những “sản phẩm” do các em làm ra, hoặc sưu tầm được như vật dụng, phiếu bài tập và lưu lại trong tập hồ sơ của từng em để cả thầy và trò có thể đo lường sự tiến bộ cũng như tinh thần học tập của các em qua từng buổi học. *Học sinh đánh giá lẫn nhau (đã làm nhưng còn mang tính hình thức) Đối với những bài kiểm tra định kỳ, học sinh có thể thực hiện việc đánh giá lẫn nhau thông qua hoạt động trao đổi bài kiểm tra cho nhau và đánh giá bài kiểm tra của bạn (giáo viên cung cấp hướng dẫn cách đánh giá, phân công chéo và kiểm soát ý thức đánh giá chéo của học sinh). Sau đó các em sẽ nhận lại bài kiểm tra của mình và các em có thể trao đổi với người chấm, với bạn về bài kiểm tra của mình. Đối với hoạt động thảo luận nhóm, có hai chiều kích của đánh giá lẫn nhau. Đó là các thành viên trong một nhóm đánh giá hoạt động, ý kiến của nhau và các nhóm đánh giá nhau khi trình bày kết quả thảo luận trên lớp. Nhiệm vụ của giáo viên là tạo điều kiện và hướng dẫn học sinh học sinh cách đánh giá lẫn nhau. Cụ thể là giáo viên cần nêu rõ các tiêu chuẩn cần đạt cho các bài tập thảo luận, nếu mỗi thành viên trong nhóm hoặc mỗi nhóm đạt được tiêu chuẩn đã nêu thì bản thân học sinh đó và cả nhóm đạt điểm tốt. Ví dụ, khi nhóm được giao nhiệm vụ phát hiện một đơn vị kiến thức mới từ việc giải một bài toán, giáo viên có thể chỉ các nhóm khác đánh giá bài làm của nhóm bạn theo mẫu: Tiêu chuẩn Nhận xét Điểm Lời giải đúng (3 điểm) Mức độ sáng tạo trong bài giải (2 điểm) Trình bày khoa học, ngắn gọn, dễ hiểu, sạch sẽ, lôi kéo sự tham gia của người nghe trong quá trình thuyết trình cách giải (2 điểm) Phát hiện ra vấn đề cần đạt sau khi giải xong bài toán (3 điểm) Tổng điểm Việc đánh giá không chỉ là đánh giá kết quả công việc mà học sinh/nhóm học sinh hoàn thành mà còn cần phải đánh giá một yếu tố rất quan trọng là tinh thần, thái độ làm việc của học sinh. Do vậy, giáo viên có thể sử dụng phiếu quan sát sau cho các thành viên trong nhóm đánh giá lẫn nhau: * Phiếu quan sát tinh thần, thái độ trong qúa trình thảo luận Người quan sát: Ngày: Hoạt động A B C D Đóng góp ý kiến Phản biện ý kiến Nêu câu hỏi làm rõ vấn đề Hướng dẫn bạn Các hoạt động khác Các phiếu quan sát này sẽ được sử dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động của nhóm và rút kinh nghiệm cho lần thảo luận sau. * Học sinh tự đánh giá Tự đánh giá bản thân là một hoạt động rất quan trọng bên cạnh việc học sinh đánh giá lẫn nhau. Khả năng tự đánh giá, giám sát bản thân thể hiện không chỉ năng lực tư duy mà còn thể hiện tinh thần trách nhiệm với công việc của chính mình. Hoạt động tự đánh giá xảy ra khi một học sinh nhận lại bài kiểm tra của mình từ giáo viên hoặc sau khi các em trao đổi bài kiểm tra với bạn sau khi chấm. Khi đọc bài kiểm tra của bạn cùng với việc đọc những lời nhận xét của giáo viên và bạn cùng lớp về bài viết của mình, các em sẽ có sự tự đánh giá về mình. Do vậy việc chấm bài cần có nhận xét chi tiết về bài làm của từng HS, việc trả bài cần thực hiện nghiêm túc, rút kinh nghiệm sâu sắc về bài kiểm tra đó. Đối với hoạt động thảo luận nhóm, hoạt động tự đánh giá xảy ra ở hai cấp độ: mỗi cá nhân tự đánh giá và nhóm tự đánh giá hoạt động của nhóm. Khi một học sinh hoặc nhóm học sinh nghe bạn/nhóm bạn trình bày ý tưởng, học sinh/nhóm học sinh đó tự so sánh ý tưởng của mình với ý tưởng của bạn/nhóm bạn để đánh giá ai đúng, ai sai, từ đó tự điều chỉnh nhận thức của bản thân. Điều này chỉ có thể xảy ra nếu giáo viên tạo điều kiện cho học sinh/nhóm học sinh phát biểu, trình bày kết quả thảo luận. Một biện pháp khác là giáo viên cho học sinh sử dụng phiếu sau đây cho các nhóm học sinh tự đánh giá hoạt động của nhóm trong mỗi lần thảo luận: * Phiếu tự đánh giá của nhóm Nhiệm vụ của nhóm là gì? Nhóm đã làm tốt điều gì? Nếu được làm lại, nhóm sẽ làm gì? Nhóm gặp khó khăn nào khi thực hiện công việc? So sánh với ý tưởng của nhóm bạn? Việc trả lời những câu hỏi này là cơ hội cho học sinh tự đánh giá lại công việc, đồng thời đó còn là cơ hội để học sinh bày tỏ những khó khăn của nhóm. Những câu trả lời này cũng giúp giáo viên biết nhóm đã xác định đúng mục đích yêu cầu của công việc được giao hay chưa, khả năng tự đánh giá công việc của nhóm như thế nào và nhóm gặp những khó khăn nào để giáo viên có biện pháp giúp đỡ. Nhìn chung, sự phối hợp giữa các hình thức đánh giá trên sẽ cho giáo viên một cái nhìn toàn diện về các hoạt động của học sinh, từ đó có những đánh giá xác đáng. Tuy vậy, không phải tất cả các hoạt động đánh giá trên đều được quy thành điểm, trong một số trường hợp, những bảng đánh giá này nhằm vào mục đích giúp học sinh nhận thức rõ công việc của mình, ưu điểm, nhược điểm của bản thân để khắc phục. Đó là mục đích giáo dục cao nhất mà hoạt động đánh giá cần đạt được. 4.2 Cách thức ra đề Dạng câu hỏi Dạng câu hỏi dùng để đánh giá định kì, gồm có kiểm tra nói và kiểm tra viết. 4.2.1 Kiểm tra nói Kiểm tra nói là hình thức kiểm tra trong đó giáo viên đánh giá học sinh trực tiếp sau khi các em đã trình bày kiến thức trả lời câu hỏi hoặc thuyết trình một vấn đề có chuẩn bị trước bằng lời nói. Kiểm tra nói được thực hiện phổ biến ở hai dạng: vấn đáp và thuyết trình. QKiểm tra vấn đáp Hình thức kiểm tra vấn đáp thường được sử dụng ở đầu tiết học để đánh giá mức độ nắm vững kiến thức của bài học ở tiết trước, sự chuẩn bị bài ở nhà theo lời dặn của giáo viên. kiểm tra vấn đáp còn được sử dụng ở cuối học kì hay cuối năm học (thi vấn đáp). Mục đích của thi vấn đáp là đánh giá học vấn của học sinh sau một quá trình học tập. GV chuẩn bị trước câu hỏi và tiến hành hỏi HS theo trình tự đã đặt ra mà không có sự điều chỉnh nào. Ưu điểm: các câu hỏi được chuẩn bị sẵn nên ít sai phạm sai lầm về ngôn ngữ, kiến thức, ý tứ và chúng được xếp thành hệ thống từ dễ đến khó, câu trước là sự gợi ý cho câu sau Nhược điểm: sự cứng nhắc của hệ thống câu hỏi đôi khi làm HS bị đánh giá “oan”. Do tâm lí sợ hãi hoặc chưa hiểu ý tứ câu hỏi nên các em không trả lời đầy đủ theo yêu cầu. Dùng kiểu này, GV cần có bản lĩnh, nhạy bén và có kinh nghiệm (cộng với thái độ). Nếu HS trả lời nhanh và đúng thì hỏi thêm để cho điểm cao, nếu HS yếu thì hỏi thêm để “cứu vớt”, động viên các em. Ưu điểm của phương pháp kiểm tra vấn đáp là tránh được tình trạng gian lận khi thi (quay cóp, đánh tráo người thi), giúp GV đánh giá chính xác năng lực từng HS. Kiểu này còn tập cho HS tác phong mạnh dạn, nói năng trước đám đông. Hình thức thi vấn đáp sẽ cho kết quả thi tức thì. Nhược điểm của phương pháp kiểm tra vấn đáp: so với kiểm tra viết thì kiểm tra vấn đáp sẽ mất nhiều thời gian cho công tác chuẩn bị đề, tổ chức. Kết quả kiểm tra có thể ảnh hưởng nếu GV bị chi phối bởi thiện cảm hay ác cảm với HS. Ngoài ra, những HS nhút nhát có thể có kết quả không cao khi thi vấn đáp. Do vậy, GV phải biết động viên thí sinh, hết sức chú ý đến thái độ mềm mỏng khi hỏi, công tâm khi cho điểm. Q Thuyết trình HS được yêu cầu trình bày trước lớp những kiến thức của mình về một vấn đề nào đó, sau đó, đối thoại với người nghe về những vấn đề người nghe thắc mắc. Hình thức tổ chức buổi thuyết trình thường là: mỗi HS (hoặc một hay vài đại diện của một nhóm HS) lần lượt trình bày về một vấn đề mà cá nhân (hoặc nhóm) đã chuẩn bị, các HS khác lắng nghe, bổ sung hoặc nêu thắc mắc, tranh luận. Sau đó, đại diện từng nhóm phát biểu, các nhóm khác có ý kiến trao đổi. Ưu điểm: Phương pháp này có tác dụng rất tốt trong việc rèn luyện năng lực diễn đạt, thuyết trình trước đám đông, rèn luyện sự tự tin, khả năng độc lập và nhạy bén trong tư duy, khả năng sắp xếp bố cục bài thuyết trình. Nhược điểm: Hình thức này thường mất nhiều thời gian chuẩn bị và thời gian thuyết trình. Đây là hình thức rất khó đối với HS loại trung bình và kém. 4.2.2 Nhóm kiểm tra viết Kiểm tra viết là hình thức kiểm tra trong đó HS trình bày kiến thức của mình bằng hình thức bài viết. kiểm tra viết có thể tiến hành ở lớp trong các kì kiểm tra, kì thi hoặc bằng hình thức cho về nhà làm. Kiểm tra viết thường có hai dạng: tự luận và trắc nghiệm khách quan. Q Tự luận Ưu điểm nổi bật của câu hỏi tự luận là HS có quyền xây dựng phần trả lời một cách tự do. Vì thế mà câu hỏi tự luận rất có lý tưởng cho việc đánh giá năng lực và kĩ năng trình bày, diễn đạt, tổ chức của HS. Câu hỏi tự luận có thể sử dụng để đánh giá khá sâu các năng lực nhận thức của HS, nhất là năng lực cấp cao như: phân tích, tổng hợp, diễn đạt, giải quyết vấn đề, đánh giá. Öu ñieåm: năng lực suy nghĩ và khả năng giải quyết vấn đề cho HS. Tạo điều kiện cho HS kết hợp và áp dụng các năng lực cấp cao đó vào quá trình giải quyết vấn đề. tạo cơ hội cho HS áp dụng các ý tưởng sáng tạo vào việc giải quyết vấn đề. Nhược điểm: Độ bao phủ nội dung thấp vì không thể sử dụng nhiều câu hỏi tự luận trong một bài kiểm tra. Việc chấm bài tự luận tốn nhiều thời gian, phức tạp và không có độ tin cậy cao. Điểm số của bài kiểm tra tự luận bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố như chữ viết, chính tả, .. của HS và nhất là chính giáo viên chấm bài. Q Trắc nghiệm khách quan Trắc nghiệm khách quan (TNKQ) là dạng kiểm tra trong đó mỗi câu hỏi có kèm theo những câu trả lời sẵn. Loại câu hỏi này cung cấp cho HS một phần hay tất cả những thông tin cần thiết và đòi hỏi HS phải chọn một câu trả lời hoặc chỉ cần điền thêm một vài từ (loại câu hỏi đóng). Gọi là TNKQ vì việc chấm điểm đảm bảo tính khách quan hơn việc chấm điểm bài tự luận. Tuy nhiên tính khách quan cũng không hoàn toàn tuyệt đối vì việc ra đề và xây dựng đáp án phần nào đã mang tính chủ quan của tác giả. Có các loại câu trắc nghiệm như: loại câu trắc nghiệm đúng – sai (Đ/S), loại câu trắc nghiệm ghép đôi, loại trắc nghiệm điền khuyết, loại câu nhiều lựa chọn.. PLoại câu trắc nghiệm đúng – sai (Đ/S): Mỗi câu hỏi chỉ nên gồm một ý, tránh loại câu hỏi một phạm vi kiến thức rộng, nhiều chi tiết, cách diễn đạt phải dễ hiểu. Ưu điểm: dễ xây dựng; Có thể sử dụng cho mọi môn học; Độ bao phủ kiến thức cao cho một bài kiểm tra vì có thể sử dụng nhiều câu Đ/S trong một bài kiểm tra, dù thời gian không nhiều; Việc chấm bài nhanh, đơn giản, khách quan và có độ tin cậy cao. Nhược điểm: Không thích hợp với việc đánh giá các năng lực nhận thức cấp cao. Xác suất đúng sai là 50/50 trong trường hợp HS không thuộc bài. PLoại câu trắc nghiệm ghép đôi Loại câu hỏi này thường gồm hai cột thông tin. Cột thứ nhất là những câu hỏi (hay câu dẫn), cột thứ hai là những câu trả lời (hay câu lựa chọn). HS phải chọn câu trả lời ở cột 2 sao cho phù hợp với câu hỏi ở cột 1 để ghép với nhau. Ưu điểm: Khả năng HS trả lời đúng ngẫu nhiên là thấp nhiều so với loại câu Đ/S; Có thể sử dụng để kiểm tra lượng kiến thức lớn trong thời gian ngắn; Việc chấm bài nhanh, đơn giản, khách quan và có độ tin cậy cao. Nhược điểm: Không hiệu quả trong việc đánh giá các năng lực nhận thức cấp cao như phân tích, tổng hợp, đánh giá; Việc thiết kế câu hỏi không dễ dàng. PLoại trắc nghiệm điền khuyết Loại trắc nghiệm này đòi hỏi HS phải điền lại vào những chỗ trống trong câu do một hay những từ đã được người ta đề ra cố ý bỏ đi. Loại trắc nghiệm điền khuyết chủ yếu thích hợp với việc kiểm tra hai năng lực nhận thức cơ bản: ghi nhớ và thông hiểu. Tuy nhiên, cũng có thể sử dụng loại câu này để đánh giá những kiến thức cơ bản của HS Ưu điểm: Việc xây dựng câu điền khuyết không quá khó khăn; Giảm được xác xuất HS trả lời đúng do đoán mò hay gặp may so với dạng câu đúng – sai; Thích hợp với việc kiểm tra những kiến thức cơ bản và năng lực tính toán,.. Nhược điểm: Khó kiểm tra các năng lực nhận thức cấp cao của HS; Khó xây dựng được những câu có từ điền khuyết tuyệt đối đơn nhất, do vậy việc chấm bài khó hơn và độ khách quan khi chấm giảm hơn so với các dạng câu khác. PLoại câu nhiều lựa chọn Một câu hỏi trắc nghiệm nhiều lựa chọn bao gồm hai phần cơ bản: Phần dẫn (hay phần gốc) nêu lên vấn đề. Đó có thể là một câu hỏi trực tiếp hoặc một câu chưa hoàn chỉnh. Phần thứ hai: bao gồm một số phương án đề nghị giải quyết vấn đề đã nêu ở phần dẫn. Các phương án này còn được gọi là các “câu trả lời” hay các “lựa chọn”. Trong số các phương án được đề nghị, chỉ có một phương án đúng, những phương án còn lại gọi là “phương án nhiễu”. Độ gây nhiễu càng cao thì câu hỏi càng tốt. Nhiệm vụ của HS là chọn ra câu đúng. Loại câu này có tầm sử dụng rất rộng, có thể được dùng để đáng giá hầu hết những năng lực nhận thức của HS từ đơn giản đến phức tạp. Ưu điểm: Độ bao phủ nội dung rất tôt vì có thể sử dụng nhiều câu trong một thời gian ngắn để kiểm tra nhiều vấn đề; Có khả năng chẩn đoán những sai sót, khiếm khuyết trong nhận thức của HS qua các câu nhiễu; Việc chấm bài dễ dàng, nhanh chóng, khách quan, chính xác và tin cậy. Nhược điểm: Việc thiết kế một câu trắc nghiệm nhiều lựa chọn tốt khá khó khăn và tốn nhiều thời gian, nhất là việc xây dựng những câu nhiễu; Khó đánh giá khả năng tư duy sáng tạo, diễn đạt, trình bày một vấn đề của HS; HS có thể trả lời đúng một cách ngẫu nhiên từ việc đoán mò. 5. Kết luận. Quá trình kiểm tra và đánh giá là quán trình tập trung và phát triển các năng lực của người học phải đảm bảo được các yêu cầu sau: - Đánh giá là một quá trình, theo một quá trình: đánh giá từng nội dung, từng bài học, từng loại hoạt động giáo dục, từng môn học và đánh giá toàn diện theo mục tiêu giáo dục. - Việc kiểm tra đánh giá phải phù hợp với đặc thù bộ môn, phù hợp lứa tuổi, tâm sinh lí học sinh. - Không chỉ kiểm tra kiến thức đã học mà còn phải chú trọng đến kiểm tra thái độ, kĩ năng nhận xét, đánh giá, phân biệt đúng, sai; khả năng vận dụng và thực hành trong cuộc sống của học sinh. Đánh giá là công cụ quan trọng, chủ yếu xác định năng lực nhận thức của người học, điều chỉnh quá trình dạy và học; là động lực để đổi mới phương pháp dạy học, góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng đào tạo con người theo mục tiêu giáo dục. Cần phát huy ưu điểm của công nghệ thông tin vào giảng dạy để nâng cao hiệu quả của việc kiểm tra đánh giá học sinh.
Tài liệu đính kèm: