Phát huy tính tích cực của học sinh trong luyện tập chạy bền

Phát huy tính tích cực của học sinh trong luyện tập chạy bền

Năm học 2010- 2011 là năm học thứ tám thực hiện giảng dạy chương trình theo SGK mới. Trong bối cảnh hiện nay ngành giáo dục và đào tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong hoạt động học tập nhằm phù hợp với xu thế của thời đại. Vấn đề này đã đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với giáo viên THCS là phải đổi mới cách dạy: Giáo viên chỉ là người hướng dẫn chỉ đạo điều khiển học sinh đi tìm kiến thức mới, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Chính vì vậy học sinh phải là người tự giác, chủ động, tìm tòi, phát hiện các kiến thức mới một cách linh hoạt, sáng tạo vào thực tiễn cuộc sống thông qua sự dẫn dắt điều khiển của giáo viên trong tiết dạy. Do vậy việc lựa chọn phương pháp dạy học sao cho phù hợp với kiểu bài và phát huy được sự yêu thích môn học đối với học sinh là một vấn đề rất quan trọng, đó cũng là một thủ thuật sư phạm của người giáo viên. Nhận thức được điều đó tôi mạnh dạn tìm hiểu và nghiên cứu đề tài “Phát huy tính tích cực của học sinh trong luyện tập chạy bền” mà tôi đã áp dụng và theo dõi nhiều năm tại trường THCS Lâm Xuyên nơi tôi đang công tác.

 

doc 16 trang Người đăng hoangquan Lượt xem 404Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Phát huy tính tích cực của học sinh trong luyện tập chạy bền", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
* Sơ yếu lý lịch
- Họ và tên: Hà Đình Tường
- Ngày tháng năm sinh: 16 – 10 – 1981
- Đơn vị công tác: Trường THCS Lâm Xuyên - Sơn Dương – Tuyên Quang
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Cao đẳng Sinh – Thể dục
A . ĐẶT VẤN Đấ̀ :
 1. Tờn đề tài: Phát huy tính tích cực của học sinh trong luyện tập chạy bền 
2. Lý do chọn đề tài
Năm học 2010- 2011 là năm học thứ tám thực hiện giảng dạy chương trình theo SGK mới. Trong bối cảnh hiện nay ngành giáo dục và đào tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong hoạt động học tập nhằm phù hợp với xu thế của thời đại. Vấn đề này đã đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với giáo viên THCS là phải đổi mới cách dạy: Giáo viên chỉ là người hướng dẫn chỉ đạo điều khiển học sinh đi tìm kiến thức mới, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Chính vì vậy học sinh phải là người tự giác, chủ động, tìm tòi, phát hiện các kiến thức mới một cách linh hoạt, sáng tạo vào thực tiễn cuộc sống thông qua sự dẫn dắt điều khiển của giáo viên trong tiết dạy. Do vậy việc lựa chọn phương pháp dạy học sao cho phù hợp với kiểu bài và phát huy được sự yêu thích môn học đối với học sinh là một vấn đề rất quan trọng, đó cũng là một thủ thuật sư phạm của người giáo viên. Nhận thức được điều đó tôi mạnh dạn tìm hiểu và nghiên cứu đề tài “Phát huy tính tích cực của học sinh trong luyện tập chạy bền” mà tôi đã áp dụng và theo dõi nhiều năm tại trường THCS Lâm Xuyên nơi tôi đang công tác.
3. phạm vi nghiên cứu.
áp dụng cho khối 8, khối 9 trong trường THCS 
B. Giải quyết vấn đề
I. Cơ sở lý luận của đề tài
1. Cơ sở lý luận:Luật Giáo dục năm 2005 (Điều 5) đã quy định : 
"Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học ; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên".
	 Với mục tiêu giáo dục phổ thông là "giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc". Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGD &ĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu:" Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh ; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác ; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập của học sinh".
- Hiện nay do yêu cầu đổi mới của phương pháp GD và yêu cầu học tập mà đòi hỏi học sinh phải có thể lực để tiếp thu tốt các bài học trên lớp và nâng cao sức đề kháng .
- Để giờ dạy đạt hiểu quả cao giáo viên cần nắm vững tâm lý của học sinh.
- Cần tìm hiểu rõ thể trạng của từng học sinh để đưa ra những phương pháp luyện tập cho học sinh phù hợp.
- Học sinh THCS bắt đầu và đang bước vào thời kỳ dậy thì nên cơ thể các em phát triển với tốc độ rất nhanh cả về hình thái, tổ chất thể lực cũng như chức phận của các hệ cơ quan trong cơ thể. Lúc này TDTT, dinh dưỡng có tác dụng cực kỳ quan trọng đến việc phát triển toàn diện cơ thể.
- Giáo viên cần tìm hiểu và học tập những phương pháp luyện tập tiên tiến để áp dụng trong giờ dạy.
- Đặc biệt “chạy bền” là nội dung luyện tập tương đối đơn điệu mà lại đòi hỏi người học phải vận động nhiều làm học sinh dề nhàm chán và đôi lúc không đảm bảo lượng vận động cần thiết để phát triển sức bền. 
2. Cơ sở thực tiễn:
- Với giáo viên: 
. Việc áp dụng các phương pháp luyện tập chạy bền còn chậm.
	. Việc học tập thêm các phương pháp mới còn hạn chế.
- Với học sinh:
	. Đa số các em còn coi nhẹ việc luyện tập đặc biệt là môn chạy bền.
	. ở lứa tuổi này cơ thể các em yêu cầu một lượng vận động cao 
một yêu cầu mang tính chất sinh học - bởi vì vận động sẽ giúp cho quá trình trao đổi chất trong đó đặc biệt là quá trình đồng hóa diễn ra trong cơ thể nhanh hơn, mạnh hơn, mà đó chính là cơ sở để các em phát triển.
- Tài liệu hướng dẫn gần như không có.
- Đặc biệt tình trạng học sinh không đáp ứng được yêu cầu về thể lực ngày càng tăng do ý thức yếu kém của các em trong luyện tập ở trường cũng như ở nhà.
	Chính vì những lý do trên mà tôi đã thực hiện nghiên cứu đề tài “ Phát huy tính tích cực của học sinh trong luyện tập chạy bền” .
II. Nội dung nghiên cứu của đề tài:
- Việc phát huy tính tích cựu của học sinh trong luyện tập chạy bền sẽ làm tăng hiệu quả rất lớn trong việc rèn luyện thể lực của học sinh, giúp các em hoàn thành mục tiêu môn học THCS là:
	. Biết được một số kiến thức, kỹ năng cơ bản để tập luyện gìn giữ sức khoẻ và nâng cao thể lực.
	. Góp phần rèn luyện nếp sống lành mạnh, nhanh nhẹn, khéo léo, thói quen tự giác tập luyện TDTT, gìn giữ vệ sinh.
	. Có sự tăng tiến về thể lực, đạt tiêu chuẩn RLTT và thể hiện bản thân về TDTT.
	. Biết vân dụng vào thực tế.
1.Thời gian, địa điểm:
- Đối tượng nghiên cứu trong đề tài là học sinh THCS.
- Địa điểm : Trường THCS Lâm Xuyên với môn Thể dục.
- Thời gian thực hiện đề tài trong năm học trên cơ sở từng tiết dạy.
2. Đóng góp về mặt thực tiễn
 Chạy bền là nội dung rèn luyện sức bền cho học sinh THCS, luyện tập chạy bền sẽ giúp học sinh phát triển một cách toàn diện cả về thể chất và tinh thần. Trên thực tế tại Trường THCS Lâm Xuyên học sinh luôn rất e ngại phải luyện tập chạy bền, đến kỳ kiểm tra lại cố quá sức nên cũng dễ xảy ra hiện tượng quá mệt thậm chí choáng ngất do đặc thù của bộ môn, vì thế vấn đề cần giải quyết là phải làm sao để cho học sinh có hứng thú và ham thích, biết cách luyện tập chạy bền. Học sinh không chỉ có ý thức luyện tập ở trường mà còn có ý thức luyện tập ở nhà. Qua nghiên cứu và áp dụng các phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong luyện tập chạy bền vào giảng dạy ở các tiết học tôi đã thu nhận được một số kết quả: học sinh đã tích cực luyện tập, thể lực của các em đã dần được nâng cao, nhìn chung các em không còn tâm lý sợ hãi khi phải luyện tập chạy bền, thành tích trong từng cự li chạy bền của các em được nâng lên, kết quả rèn luyện đã có tiến bộ rõ rệt.
III. Biện pháp thực hiện đề tài
1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu:
- " Tính tích cực là một hiện tượng Sư phạm, biểu hiện ở sự gắng sức cao về nhiều mặt trong hoạt động học tập" (L.V. Relrova, 1975). Học tập là một trường hợp riêng của sự nhận thức, "Một sự nhận thức đã được làm cho dễ dàng đi và được thực hiện dưới sự chỉ đạo của giáo viên" ( P.V. Erđơniev, 1974). Vì vậy nói tới tích cực học tập, thực chất là nói tới tính tích cực nhận thức.
- Tính tích cực của học sinh là hoạt động nhận thức của học sinh đặc trưng trong việc học tập, nghị lực trong quá trình luyện tập, tính tích cực của học sinh là quá trình phát hiện tìm hiểu, giải quyết nhiệm vụ nhận thức dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, sự chủ động trong học tập và thể hiện qua việc tham gia các hoạt động TDTT, trò chơi, Đoàn đội....
- Để có thể dạy học theo phương pháp tích cực hoá người học đối với môn học thể dục đương nhiên rất cần có sân tập và phương tiện tập luyện tốt hơn hiện nay và đó là chính là phương tiên dạy học của người giáo viên thể dục, tuy nhiên đây là một vấn đề cần khắc phục.
- Sức bền là một trong những tố chất quan trọng của con người nhất là trong giai đoạn phát triển toàn diện của các em học sinh THCS.
- Từ nhiều năm nay thể lực của học sinh luôn là một vấn đề trăn trở của các giáo viên dạy Thể dục trong trường THCS, việc các em học sinh có thể lực yếu kém không chỉ làm ảnh hưởng đến việc phát triển thể chất mà còn ảnh hưởng đến viêc học tập của các em, việc cấp thiết là cần có sự thay đổi tư duy trong việc hướng dẫn luyện tập và rèn luyện thể lực cho học sinh.
* Kết luận: Luyện tập thể lực ở trường THCS là một vấn đề rất được chú ý, do đó việc cần phải có một sự thay đổi trong viêc luyện tập thể lực cho học sinh THCS. Ngày trước môn học chạy bền là một chương riêng biệt và chỉ được dạy trong một số tiết nhất định thì nay đã được thay đổi bằng cách đưa vào tất cả các tiết học trong suốt cả năm học từ đó mỗi giáo viên cần đưa ra những phương pháp luyện tập sao cho phù hợp với học sinh, tạo cho học sinh ý thức phấn đấu và quyết tâm cao khi luyện tập thể lực để tạo ra một sức bền cho cở thể có thể đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện. Điều đó đã làm nảy sinh trong tôi ý nghĩ phải thay đổi tư duy, ý thức của học sinh trong việc rèn luyện thể lực và tôi mạnh dạn đề ra một số phương pháp nhằm " phát huy tính tích cực của học sinh trong luyện tập chạy bền". 
 * Nhiệm vụ lý luận:
- Thể lực của học sinh luôn là một vấn đề được đặc biệt quân tâm của giờ thể dục, là một tiêu chí đánh giá xếp loại học sinh. Tuy nhiên trong giờ dạy thể lực luôn gặp những hạn chế:
	. Học sinh chưa nhận thức nâng cao thể lực cho mình.
	. Học sinh lười luyện tập.
	. Giáo viên chưa chịu cập nhật các phương pháp luyện tập mới để tạo sự hứng thú luyện tập của học sinh.
. Dụng cụ luyện tập còn quá ít hoặc không phù hợp hay chất lượng kém.
* Nhiệm vụ thực tiễn:
- Do điều kiện sân bãi không tốt, phạm vi hẹp.
- Thiết bị đồ dùng luyện tập còn thiếu.
- Học sinh chưa biết cách áp dụng phương pháp luyện tập và bài tập phù hợp với thể trạng cơ thể mình.
VD: Khi sử dụng phiếu điều tra hứng thú học tập đầu năm thông qua việc chọn lựa môn TDTT em ưa thích để luyện tập kết quả thu được như sau:
	Chạy bền: 5%
	Cầu lông: 30%
	Đá bóng: 35%
	Bóng bàn: 5%
	Bóng chuyền: 25%	
Đa số các em chọn những môn luyện tập theo ý thích chủ quan của mình mà không để ý đến thể trạng cơ thể cũng như tố chất TT của mình. Một số em có thể trạng và thể lực yếu lại thích các môn vận động mạnh như: đá bóng, bơi, chạy bền, có em thấy bạn chọn thì mình cũng chọn hay do các ban rủ tập cùng.
- Cũng có thể do giáo viên hướng dẫn học sinh cách chọn lựa môn TT phù hợp cho các em cũng như việc áp dụng phương pháp, dung cụ luyện tập còn hạn chế dẫn đến các em không có hứng thú luyện tập.
- Ngoài ra các em chưa chú trọng đến quá trình khởi động và lượng vận động của mình.
- Có thể nói chất lượng thể lực của học sinh trong trường là một vấn đề cần giải quyết không chỉ có tôi mà những giáo viên đi trước đều có thể cảm nhận được. Thông qua chất lượng kiểm tra 2 năm học trước ta có thể thấy được điều này: 
	Năm học 2009 - 2010: kết quả kiểm tra TCRL TT cuối năm học thông qua môn chạy bền có kết quả như sau:
Khối 9: 
 G: 6%
	K: 18%
	Đ: 29%
	CĐ: 47%
Khối 8: 
	G: 3%
	K: 17%
	Đ: 30%
	CĐ: 50%
ở đây tôi chỉ thu thập số liệu của 2 khối 8 - 9 vì ở 2 khối này việc rèn luyện thể lực là rất quan trọng đến sự phát triển của các em. Thông qua số liệu đó tôi nhận ra tỷ lệ học sinh đạt loại giỏi và khá là rất ít do các em lười luyện tập trong giờ học cũng như ở nhà các em chưa có nhận thức về tầm quan trọng của thể lực. Đặc biệt trong các giải TDTT của Huyện, ngành trường tôi được rất ít giải trong nội dung thi chạy cự li trung bình và dài từ đó việc cấp thiết là tạo cho các em hứng thú luyện tập thể lực ở trường cũng như ở nhà, trong và ngoài tiết học.
- Qua một số vấn đề ta có thể thấy thực chất việc giảng dạy thường xuyên bị thói quen nói dài, giảng giải và làm mẫu quá sâu, quá kĩ trong khi thực chất không cần đến thế. Bây giờ ta phải làm sao để đưa ra các phương pháp và hình thức có thể khác nhau, sao cho giờ học đạt hiểu quả cao nhưng phong phú nội dung hình thức tập luyện, đặc biệt để giờ học không quá căng thẳng mà vui tươi, nhẹ nhàng, đạt hiểu quả cao về giáo dục, về rèn luyện sức khoẻ, thể lực học sinh. 
- Phần lý thuyết : áp dụng phương pháp đọc tài liệu để nghiên cứu và đổi mới phương pháp dạy học tích cực của học sinh.
- Nghiên cứu kỹ những tài liệu và SGK.
- Sử dụng phương pháp phỏng vấn, thống kê, phiếu học tập.
- Quan sát tìm hiểu thực tế của học sinh.
- Nghiên cứu SGK lớp 9 mới.
- Một số phương pháp luyện tập, sử dụng các dụng cụ luyện tập.
- Tìm hiểu thực trạng thể lực của học sinh thông qua kiểm tra đánh giá đầu năm.
- Đưa đề tài vào thực nghiệm trong giờ dạy.
- Như vậy để học sinh có tích cực tập luyện nâng cao thể lực trong các giờ dạy giáo viên cần chú ý những điểm cơ bản sau:
	. Giảm lí thuyết, giảng giải đến mức hợp lý, để tranh thủ thời gian cho học sinh luyện tập.
	. Đổi mới cách tổ chức giờ học sao cho phù hợp với nội dung, điều kiện cụ thể, giảm tối đa sự chờ đợi tập luyện, tạo điều kiện cho học sinh tự quản.
	. Tăng cường áp dụng các phương pháp trò chơi, thi đấu.
	. Tạo điều kiện cho học sinh tự đánh giá, tham gia đánh giá.
	. Không để giờ học căng thẳng, nặng nề, nên vui tươi, hấp dẫn, nhẹ nhàng nhưng hiệu quả cao.
* Để làm được các vấn đề trên tôi đã sử dụng phiếu học tập để đánh giá sự hiểu biết của học sinh về sức bền như sau:
Phiếu điều tra	
1. Em hiểu thế nào là sức bền?
 	a) Khả năng của cơ thể chống lại mêt mỏi khi luyện tập.
	b) Khả năng lao động hay tập luyện TDTT kéo dài.
	c) Cả a và b.
2. Sức bền được chia làm mấy loại:
	a) Sức bền chung – Sức bền chuyên môn.
	b) Sức bền thể lực – Sức bền riêng biệt.
	c) Cả a và b.
3. Sức bền chung là gì?
	a) Là khả năng của cơ thể khi thực hiện công việc nói chung trong một thời gian dài.
	b) Là khả năng của cơ thể khi làm việc trong một thời gian ngắn.
	c) Cả a và b.
4. Sức bền chuyên môn là gì?
	a) Là khả năng của cơ thể khi thực hiện chuyên sâu một hoạt động lao động, hay một môn thể thao cụ thể.
	b) Là khả năng thực hiện bài tập TT trong một thời gian dài.
	c) cả a và b.
* Ngoài ra tôi còn sử dụng một phiếu học tập để đánh giá ý thức luyện tập của học sinh và sự hiểu biết về phương pháp luyện tập của học sinh :
	1. Em đã tự tập chạy bền bao giờ chưa?
	2. Em có định tập sức bền không ? tập theo hình thức nào kế hoạch tập của em ra sao?.
	3. Một học sinh nam chưa tập chạy bao giờ ngay buổi đầu tiên đã chạy 1000m theo em có tốt không?
	4. Một bạn chạy bền xong đứng lại ngay đúng hay sai?
	5. Sau khi tập bài thể dục xong một bạn tập chạy nhẹ nhàng trong 4 - 5 phút theo vòng số 8 ở nhà như thế có tốt hay không?
- Kết quả cho thấy: Vốn hiểu biết của các em về sức bền của một số lớn học sinh THCS rất kém do các em không quan tâm đến luyện tập thể lực, đa số các em không biết rằng sức bền kém sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến học tập cũng như sự phát triển của cơ thể.
 	* Từ đó tôi đề ra một số phương pháp luyện tập để phát huy tính tích cực của học sinh như sau:
- Trước tiên tôi dạy học sinh cách đo nhịp mạch của cơ thể trước và sau khi luyện tập để biết được khả năng thể lực của chính bản thân.
	. Tập phù hợp với sức khoẻ của mỗi người tuý theo lứa tuổi, giới tính vá sức khoẻ của mỗi người mà tập luyện cho vừa sức. 
 Với học sinh lớp 9 có sức khoẻ bình thường cần chạy nhẹ nhành liên tục 6 phút hoặc chạy hết 500m trở lên mới có tác dụng rèn luyện sức bền.
	. Tập chạy nhẹ đến nặng: những buổi tập đầu tiên cần chạy nhẹ nhàng với tốc độ chậm khoảng 2 – 3 phút hoặc 300 – 350m, sau đó tăng dần thời gian, khoảng cách tốc độ lên một chút. Sau một số buổi tập khi cơ thể đã quen có thể nâng dần từng chỉ tiêu. Cần theo dõi sức khoẻ của học sinh trong quá trình tập bằng cách đặt ra những câu hỏi sau khi học sinh luyện tập như: Có cảm thấy khoẻ mạnh dễ chịu không, ăn ngon miệng không, ngủ có tốt không, ... nếu thấy những biểu hiện nêu trên đều tốt có thể nâng dần cự li hoặc thời gian chạy, ngược lại nếu thấy không tốt cần giảm mức độ tập hoặc cho đi kiểm tra sức khoẻ để tìm hiểu nguyên nhân và hướng khắc phục.
	. Tập thường xuyên hằng ngày hoặc 3 – 4 lần/ tuần một cách kiên trì, không nóng vội.
	. Trong một giờ học, sức bền phải đề học sau các nội dung khác và bố trí ở cuối phần cơ bản.
	. Tập chạy xong không dừng lại đột ngột, mà thực hiện một số động tác hồi tĩnh trong vài phút.
	. Song song với tập chạy, cần rèn luyện kĩ thuật bước chạy, cách thở trong khi chạy, cách chạy vượt qua một số chướn ngại vật trên đường chạy và các động tác hỗi tĩnh sau khi chạy....
	. Ngoài ra để học sinh thực sự tích cực luyện tập thể lực trong các giờ học tôi thường xuyên thay đổi cách luyện tập ở từng giờ học để học sinh không cảm thấy nhàm chán khi luyện tập bằng cách sử dụng các phương pháp luyện tập:
	. Tập sức bền bằng trò chơi vận động hoặc tập một số bài tập như: Nhảy dây, tâng cầu tối đa, tập chạy phối hợp với thở “ hai lần hít vào, hai lần thở ra’’ hoặc “ chạy vượt chướng ngại vật gặp trên đường chạy tự nhiên... Kết hợp chạy với đi bộ và rút ngắn dần cự li hoặc thời gian đi bộ để tăng cự li hoặc thời gian tập.	
. Tập sức bền bằng đi bộ hoặc chạy trên địa hình tự nhiên theo sức khoẻ từ 300m nâng dần đến 500m, 600m, 700m , 800m.... hoặc tập theo thời gian từ 3 phút đến 8, 9 ,10, 12 , 20 .... phút.
	. Tập sức bền bằng các môn có tác dụng rèn luyện sức bền như: đi bộ thể thao, chạy cự li trung bình, chạy cự li dài. Cũng có thể tập các môn cầu lông, bóng rổ, bóng đá, bơi cự li trung bình hay dài....
	. Có thể tập cá nhân hoặc theo nhóm tại chỗ hoặc di chuyển theo vòng số 8 khi đi bộ, chạy.... thời gian tập thích hợp vào buổi sáng sớm 
 ( hoặc sau khi tập bài thể dục sáng ) hoặc vào chiều tối trước khi ăn cơm. Cũng có thể tập dưới hình thức đi dạo trên quãng đường dài sau bữa ăn tối khoảng 1 giờ hoặc trước khi đi ngủ.
- Ngoài những phương pháp luyện tập trên tôi còn áp dụng thêm các dụng cụ luyện tập được trang bị và các dụng cụ tự làm vào kết hợp cho học sinh luyện tâp như: sử dụng các thanh chắn làm chướng ngại vật, dây cao su, vậy nặng buộc chân, .... để nâng cao và tăng sức chịu đựng cho học sinh.
- Với những hình thức tập luyện phong phú, phương pháp tập đơn giản, nếu có ý thức giữ gìn và nâng cao sức khoẻ bất kì học sinh nào cũng có thể tập được. Điểm khó ở đây là cần hướng cho học sinh luyện tập một cách kiên trì theo sức khoẻ cả ở trên lớp cũng như ở nhà.
2. Kiểm tra chất lượng đề tài
- Sau một học kỳ thực hiện đề tài tôi đã thu được một số kết quả đáng khích lệ so với những năm trước như sau:
Chất lượng thể lực được đánh giá thông qua kết quả RLTT
Học kỳ 1: Năm 2010 – 2011
Lớp 8 : 
 G: 10%
	K: 25%
	Đ: 49%
	CĐ: 16%
Lớp 9: 
	G: 11%
	K: 24%
	Đ: 47%
	 CĐ: 18%
* Kết luận: Mặc dù chất lượng đạt được chưa cao song thông qua các giờ dạy tôi có thể thấy học sinh đã có ý thức tích cực luyện tập không còn các biểu hiện chạy cắt vòng, chạy bỏ vòng, chạy không hết cự li yêu cầu, khi chơi trò chơi phát triển sức bền thì các em tham gia rất nhiệt tình. Việc được luyện tập bằng các phương pháp khác nhau giữa các tiết học đã rèn cho học sinh ý chí quyết tâm và nghị lực của bản thân. 
V. Kết luận và kiến nghị 
1. Kết luận chung- Việc áp dụng các phương pháp rèn luyện thể lực trong quá trình luyện tập thể lực đã góp phần nâng cao chất lượng cũng như nâng cao thể lực, ý thức rèn luyện, luyện tập của học sinh trong các giờ học.
- Học sinh được vận động sáng tạo, vui chơi, tìm tòi nhưng vẫn được rèn luyện thể lực thường xuyên.
- Việc giảng dạy bộ môn Thể dục muốn đạt hiệu quả cao trong việc rèn luyện thể lực giáo viên cần tạo cho học sinh hứng thú trong việc luyện tập và rèn luyện thể lực.
- Giáo viên cần nghiên cứu các phương pháp luyện tập mới cũng như sáng tạo những dụng cụ luyện tập hỗ trợ cho học sinh luyện tập.
- Cần phải tổ chức phù hợp một tiết dạy sao cho việc luyện tập và rèn luyện một cách hợp lý không quá nặng về một phần nào đó.
- Tạo cho học sinh ý thức tự quản, ý chí vươn lên, tham gia đánh giá một cách công bằng, hợp lý như vậy mới có thể phát huy hết khả năng tố chất của học sinh.
2. Một số kiến nghị
- Trang bị đầy đủ các thiết bị dụng cụ hỗ trợ luyện tập.
- Mở các lớp chuyên đề bộ môn để giáo viên đi dự nâng cao chuyên môn.
- Mở các lớp bồi dưỡng học chuyên môn để có thể trao đổi các phương pháp tập luyện giữa các giáo viên.
	Lâm Xuyên,ngày23 tháng 04 năm 2011
	Người viết
 Hà Đình Tường 
Xác nhận của tổ chuyên môn
 Tổ trưởng
 Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Xác nhận của hội đồng khoa học.
 Chủ tịch- Hiệu trưởng
 Nguyễn Thị Đa

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN TD phat huy tinh tich cuc cua HS.doc