Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm nổi tiếng sống vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ 18, nửa đầu thế kỷ 19.
Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm nổi tiếng sống vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ 18, nửa đầu thế kỷ 19.
Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm nổi tiếng sống vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ 18, nửa đầu thế kỷ 19. Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm nổi tiếng sống vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ 18, nửa đầu thế kỷ 19. Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn còn nhiều điểm gây tranh cãi. Thậm chí có một vài ý kiến còn cho rằng những bài thơ được xem là của Hồ Xuân Hương hiện nay do nhiều người sáng tác, nghĩa là không có ai thực sự là Hồ Xuân Hương. Dựa vào một số tài liệu lưu truyền, những bài thơ được khẳng định là của Hồ Xuân Hương, các nhà nghiên cứu đã tạm thừa nhận một số kết luận bước đầu về tiểu sử của nữ sĩ: * Hồ Xuân Hương thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đây là một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan nhưng đến đời Hồ Phi Diễn - thân sinh của bà - thì dòng họ này đã suy tàn. * Bà sống vào thời kỳ cuối nhà Lê, đầu nhà Nguyễn, tức cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Do đó bà có điều kiện tiếp thu ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của quần chúng và chứng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà nước phong kiến. * Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song hoàn cảnh cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp bức trong xã hội. * Hồ Xuân Hương ít chịu ảnh hưởng của Nho giáo về mặt nhân sinh quan cũng như về phương diện văn chương. * Bà là một phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành cũng không được nhiều lắm, bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn, các nhà nho. Nữ sĩ còn là người từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước. * Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. (Nhưng theo tài liệu của GS Hoàng Xuân Hãn và ông Lê Xuân Giáo thì nữ sĩ có tới 3 đời chồng chứ không phải hai: Tổng Cóc, Ông Phủ Vĩnh – tường, và cuối cùng là quan Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiến).Có thể thấy Hồ Xuân Hương không phải là một phụ nữ bình thường của thời phong kiến mà bà đã có một cuộc sống đầy sóng gió. Các tác phẩm Các tác phẩm của bà đã bị mất nhiều, đến nay còn lưu truyền chủ yếu là những bài thơ chữ Nôm truyền miệng. Năm 1962, ông Trần Văn Giáp đã công bố 5 bài thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương trên báo Văn nghệ viết về vịnh Hạ Long. Đến năm 1983, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã dịch và đặt tên cho 5 bài thơ này (bao gồm: Độ Hoa Phong, Hải ốc trù, Nhãn phóng thanh, Trạo ca thanh, Thuỷ vân hương) và công bố trong bài Hồ Xuân Hương với vịnh Hạ Long, đăng trên tập san Khoa học xã hội, tại Paris vào năm 1984. Năm 1964, nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại phát hiện một tập thơ nữa tên là Lưu hương ký theo những nghiên cứu đến nay nhiều người tán thành rằng những bài thơ trong đó là của Hồ Xuân Hương. Bà Huyện Thanh Quan Bà Huyện Thanh Quan (sống vào thế kỉ XIX, không rõ năm sinh, năm mất) tên thật là Nguyễn Thị Hinh bà là người giỏi về thơ văn thời Minh Mệnh và Tự Đức. Bà người làng Nghi Tàm, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Bà là vợ ông Lưu Nghi (1804 -1847), người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Lưu Nghi đỗ cử nhân năm 1821 (đời Minh Mạng thứ 2), làm tri huyện Thanh Quan (nay là huyện Thái Ninh, tỉnh Thái Bình), vì vậy người ta thường gọi bà là "Bà huyện Thanh Quan". Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc có nhắc tới chồng bà trong Nam thi hợp tuyển như sau: "Chồng bà là ông Lưu Nguyên Uẩn, sinh năm 1804, đậu tú tài năm 1825, cử nhân năm 1828 và được bổ nhiệm làm tri huyện Thanh Quan. Ông huyện Thanh Quan vì can án phải cách, bổ làm Bát phẩm thơ lại Bộ hình. Sau lại thăng lên chức Viên ngoại lang". Dưới thời Tự Đức, bà nhậm chức Cung trung giáo tập để dạy các công chúa, cung phi. Bà đã để lại 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật, miêu tả phong cảnh đất nước như đèo Ngang (bài Qua đèo Ngang), thành Thăng Long (bài Thăng Long hoài cổ), chùa Trấn Bắc (bài Chùa Trấn Bắc),... biểu thị lòng yêu mến phong cảnh thiên nhiên và tâm trạng ai hoài trước sự đổi thay của thế sự. Ngoài ra còn một bài thơ Tức cảnh mùa thu hiện vẫn chưa rõ là của bà hay của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến sinh năm Ất Mùi (1835) ở quê mẹ, làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, nhưng ông lớn lên và sống chủ yếu ở quê cha: làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Tên ông lúc đầu là Nguyễn Thắng, mãi đến năm 1865, thi hội không đỗ, mới đổi là Khuyến, biệt hiệu là Quế Sơn. Nguyễn Khuyến xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, ông nội là Nguyễn Tông Tích đỗ nho sinh, cha là Nguyễn Tông Khải đỗ liền ba khóa tú tài, nhưng trượt cử nhân. Từ bé, Nguyễn Khuyến nổi tiếng là người học giỏi. Năm 17 tuổi, ông đi thi hương với cha không đỗ, sau đó cha mất, nhà nghèo, ông phải bỏ học đi dạy thuê kiếm ăn nuôi mẹ. Bấy giờ có ông nghè Vũ Văn Lý, người làng Vĩnh Trụ, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam trước là học trò của bác Nguyễn Khuyến, thấy ông học giỏi mà bỏ dở nên đem về nuôi cho ăn học tiếp. Năm Giáp Tý (1864), Nguyễn Khuyến đi thi hương, đậu giải nguyên trường Nam Định, cùng khoa với Dương Khuê và Bùi Văn Quế, là hai người bạn thân của ông. Năm sau Nguyễn Khuyến vào Huế thi hội không đỗ, ông ở lại Huế học trường Quốc tử giám để chờ kỳ thi khác. Năm Tân Mùi (1871) Nguyễn Khuyến thi hội lần thứ hai, đỗ Hội nguyên, sau đó vào thi đình, đỗ Đình nguyên. Như thế là cả ba lần thi hương, thi hội, thi đình ông đều đỗ đầu, nên người ta gọi ông là Tam nguyên Yên Đổ và Tự Đức ban cờ biển cho ông cũng viết hai chữ "Tam nguyên". Sau khi thi đỗ xong, ông được bổ làm quan ở Nội các Huế, năm sau đổi làm Đốc học Thanh Hóa rồi án sát Nghệ An, nhưng được mấy tháng thì mẹ mất, ông xin về để tang mẹ. Mãn tang, ông vào Kinh là Biện lý bộ Hộ. Năm 1877, đổi làm Bố chánh Quảng Ngãi, năm 1879, Nguyễn Khuyến bị điều về Kinh sung chức Trực học sĩ và làm Toản tu ở Quốc sử quán. Năm 1883, triều đình Huế cử ông làm phó sứ cùng với Lã Xuân Oai làm chánh sứ đi công cán nhà Thanh, nhưng tình hình biến đổi, tháng 8 năm 1883 Thuận An thất thủ, việc đi sứ bị đình, ông lại về chức cũ. Tháng 12 năm ấy, thực dân Pháp đánh Sơn Tây, Tổng đốc Sơn Tây là Nguyễn Đình Nhuận chạy lên Hưng Hóa kháng chiến cùng Nguyễn Quang Bích. Nguyễn Hữu Độ, kinh lược sứ Bắc kỳ cử Nguyễn Khuyến làm tổng đốc nhưng ông dứt khoát từ chối, lấy cớ đau mắt nặng xin cáo quan về làng. Để đối phó với phong trào Cần Vương, thực dân Pháp tìm cách mua chuộc hàng ngũ sĩ phu có tên tuổi. Chúng cho Vũ Văn Báu, Tổng đốc Nam Định là con thầy học cũ của Nguyễn Khuyến đến mời ông ra làm quan nhưng ông nhất quyết chối từ. Năm 1905, Lê Hoan, Tổng đốc Hưng Yên tổ chức cuộc thi Vịnh Kiều để lôi kéo các nho sĩ từ bỏ con đường vận động cứu nước, y cũng cố mời Nguyễn Khuyến tham gia ban giám khảo. Không thể từ chối, Nguyễn Khuyến buộc lòng phải tham gia và ngụ ý kín đáo tâm sự của mình trong bài thơ vịnh Kiều để đả kích bọn Lê Hoan và đồng bọn. Nguyễn Khuyến cảm thấy lúc nào cũng sống trong tình trạng nghi kỵ nặng nề, nên cuối cùng cho Nguyễn Hoan(con trai ông) ra làm quan. Từ đó trở đi ông được sống tương đối yên ổn ở quê nhà, và đến tháng giêng năm Kỷ Dậu (1909) thì ông từ trần, thọ 74 tuổi. Nguyễn Khuyến còn để lại khoảng ba trăm bài thơ, cả chữ Hán và chữ Nôm, trong Quế Sơn thi tập. Thơ Nguyễn Khuyến có hai mảng quan trọng là thơ trào phúng và thơ trữ tình. Lí Bạch Thân thế và cuộc đời Lý Bạch Lý Bạch (701- 762) là nhà thơ danh tiếng nhất thời thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung,được hậu bối tôn làm Thi Tiên. Thân thế Theo lời Lý Bạch kể lại, thì ông là hậu duệ của tướng quân Lý Quảng nhà Hán, là cháu chín đời của Vũ Chiêu Vương Lý Cao nước Tây Lương thời Ngũ Hồ thập lục quốc. Có sách ghi ông là con cháu đời sau tông thất nhà Đường. Lý Bạch có 4 đời vợ, sinh 3 trai, 1 gái. Bản tính phóng túng ham chơi, ông thường không quan tâm đến gia đình, may là có Đường Minh Hoàng chiếu cố cung ứng cho gia đình không đến nỗi thiếu thốn. Tương truyền lúc ông sắp sinh, bà thân mẫu nằm mộng thấy sao Tràng Canh (hay Trường Canh), vi sao này có tên là Thái Bạch nên đặt tên con là Bạch. Sau này ông tự đặt hiệu là Thái Bạch, rồi Tràng Canh; ngoài ra do sinh ở làng Thanh Liên nên cũng lấy hiệu là Thanh Liên cư sĩ. Giới thi nhân bấy giờ thì rất kính nể tài uống rượu làm thơ bẩm sinh, nên gọi Lý Bạch là: Tửu trung tiên, Lý Trích Tiên... Về sau này, Đỗ Phủ, thua ông 11 tuổi, được tôn làm Thi Thánh (Thơ Thánh) thì Lý Bạch được tôn làm Thi Tiên (Thơ Tiên).Cuộc đời Vào cuối đời nhà Tùy, một người họ Lý do thiếu nợ phải trốn ra Tây Vực, kết duyên cùng một Man bà (phụ nữ Tây Vực), đến năm Trường An nguyên niên sinh ra Lý Bạch (lúc này nhà Đường đang có sự biến do Võ Tắc Thiên gây ra). Lý Bạch ở Lũng Tây, Cam Túc suốt thời thơ ấu, được mẹ dạy cho chữ Tây Vực, cha dạy cho Kinh Thi, Kinh Thư, đến 10 tuổi đã thông thạo và thích làm thơ. Gia đình giàu có, nên từ nhỏ Lý Bạch đã tha hồ đi đây đi đó cùng cha. Ông tỏ ra rất thích, chí hướng của ông sau này không phải quan trường, mà là thơ túi rượu bầu, thong dong tiêu sái. Đến năm 10 tuổi gia đình chuyển về huyện Chương Minh, Tứ Xuyên. Tại đây Lý Bạch say mê học kiếm thuật, trong một thời gian ngắn, tài múa kiếm và tài thơ của ông được bộc lộ rõ rệt. 15 tuổi ông đã có bài phú ngạo Tư Mã Tương Như, bài thơ gửi Hàn Kinh Châu, khá nổi tiếng. Lúc 16 tuổi danh tiếng đã nổi khắp Tứ Xuyên, thì ông lại phát chán, bèn lên núi Đái Thiên Sơn học đạo, bắt đầu cuộc đời ẩn sĩ. Làm ẩn sĩ trên núi được 2 năm, ông lại hạ sơn, bắt đầu làm hiệp sĩ, đi lùng hết các thắng cảnh ở Hà Bắc, Giang Tây, Tràng An... Bạn đồng hành với ông lúc này là Đông Nham Tử, nhưng chỉ đi chung được 1 năm. Đến năm 20 tuổi Lý Bạch đã đi khắp nước Thục, ông lại về Tứ Xuyên với gia đình, chuẩn bị tiền đi đường và tiền mua rượu cho cuộc hành trình sắp tới. Ông đến làm dưới trướng của thứ sử Ích Châu Tô Dĩnh, được ông này khen là thiên tài, "có thể sánh với Tư Mã Tương Như". Năm 723, Lý Bạch mặc áo trắng, đeo một bầu rượu lớn, chống kiếm lên đường viễn du. Trong khoảng ba năm, ông đã tham quan hầu hết cảnh đẹp Trung Hoa, như là hồ Động Đình, sông Tương, Kim Lăng, Dương Châu, Ngô Việt, ... lại bị Dương Quốc Trung dèm pha nên Dương Quý Phi cũng phát ghét, chỉ trích luôn luôn làm Đường Minh Hoàng khó xử. Lý Bạch nhận thấy sự đó, cộng với lòng đam mê du lãm đang trỗi dậy, ông liền từ biệt vua Đường. Vua rất buồn, nhưng cũng chiều theo, lại tặng thêm rất nhiều vàng nhưng thi nhân không nhận, cuối cùng trao cho ông quyền uống rượu miễn phí tại bất cứ quán rượu nào đi qua, tiền rượu sẽ do ngân khố thanh toán. Trong 10 năm kể từ lúc đó, Lý Bạch tha hồ uống rượu và đi chơi, ông từng qua Triệu, Nguỵ, Tề, Tần, Lương, Tống... các vùng Bân, Kỳ, Thương, Ư, Lạc Dương, các sông Hoài, sông Tứ... Do đi quá nhiều nên ông cũng quen biết và thân thiết với rất nhiều, trong đó có Đỗ Phủ, Sầm Tham, Mạnh Hạo Nhiên, Cao Thích... Năm Thiên Bảo thứ 13 (755), ông quen với Nguỵ Hạo ở Quảng Lăng, hai người cùng xoã tóc đi thuyền vào sông Tần Hoài. Sau đó đến Tuyên Thành. Tháng 11 năm này có loạn An Lộc Sơn, Lý Bạch liền về Lư Sơn, ở ẩn tại Bình phong điệp. Năm 756 (56 tuổi), tiết độ sứ Vĩnh Vương Lân đến tận núi mời ông về phủ. Lý Bạch đành phải đi theo. Đến khi Lân làm phản bị bắt, Lý Bạch chạy trốn nhưng không thoát, lúc sắp bị tử hình có Tuyên Uý đại sứ Thôi Chi Hoán với ngự sử trung thừa Tống Nhược Tư đem giấu đi. Sang năm 757 bị triều đình bắt lại, lúc này người từng được Lý Bạch cứu khi xưa là Vương Chi Hoán ra sức giải oan, ông được giảm xuống tội đi đày. Năm 758, trên đường đi đày ba vùng Dạ Lang, Động Đình, Tam Giáp, Lý Bạch được tha, liền đi xuống phía đông đến Hán Dương, tiếp tục cuộc ngao du đây đó, tuy nhiên tuổi già, sức yếu, ông đành đến Đang Đồ, ở nhờ anh họ là Lý Dương Băng. Đến năm 762, vua Đường Đại Tông lên ngôi, cho người mời Lý Bạch nhưng trên đường đi thì nghe tin ông đã qua đời rồi. Lý Bạch làm hơn 20.000 bài thơ cả thảy, nhưng làm bài nào vứt bài đó, nên được biết tới là nhờ dân gian ghi chép hơn cả. Sau loạn An Lộc Sơn thì mất rất nhiều.Đến khi ông mất năm 762 thì người anh họ Lý Dương Lân thu thập lại, thấy chỉ còn không tới 1/10 so với người ta truyền tụng.Sang năm 1080, Sung Minh Chiu người Hàn Quốc mới gom góp lại tập thơ Lý Bạch, gồm 1800 bài. Đến nay thì thơ Lý Bạch còn trên dưới 1000 bài, bài nào cũng được đánh giá rất cao, nhưng nổi tiếng trong dân gian thì có: Tương Tiến Tửu, Hiệp khách hành, Thanh Bình Điệu, Hành lộ nan... Nhà thơ Bì Nhật Hưu thời Vãn Đường nói rằng: "Từ khi nhà Đường dựng nghiệp đến giờ, ngữ ngôn ra ngoài trời đất, tư tưởng vượt xa quỷ thần, đọc xong thì thần ruổi tám cực, lường rồi thì lòng ôm bốn bể, lỗi lạc dị thường, không phải lời của thế gian, thì có thơ Lý Bạch".Khác với Đỗ Phủ, thơ Lý Bạch thích viển vông, phóng túng, ít đụng chạm đến thế sự mà thường vấn vương hoài cổ (Phù phong hào sĩ ca, Hiệp khách hành, Việt trung lãm cổ...), tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp (Cổ phong, Quan san nguyệt...), cảm thông cho người chinh phụ (Trường can hành, Khuê tình, Tử dạ thu ca...), về tình bạn hữu (Tống hữu nhân, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Văn Vương Xương Linh thiên Long Tiêu...), tình trai gái (Oán tình, Xuân tứ...), nhớ quê hương (Tĩnh dạ tứ, Ức Đông Sơn...). Nhưng nhiều nhất vẫn là rượu (Tương Tiến tửu, Bả tửu vấn nguyệt, 4 bài Nguyệt hạ độc chước, Xuân nhật độc chước, Đối tửu...)Lý Bạch làm thơ lối Cổ Phong rất được yêu thích, ngoài ra còn có thơ Tứ cú, bát cú. Đôi nét về nội dung thơ Lý Bạch Tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, sinh ở Tứ Xuyên (làng Thanh Liên, huyện Chương Minh, nay là huyện Miện Dương). Quê ông ở Cam Túc (huyện Thiên Thuỷ - tức Lũng Tây ngày xưa). Lý Bạch xuất thân trong một gia đình thương nhân giàu có. Lúc nhỏ học đạo, múa kiếm, học ca múa. Lớn lên thích giang hồ ngao du sơn thụy 25 tuổi "chống kiếm viễn du", đến núi Nga My ngắm trăng, ngâm thơ rồi xuôi Trường Giang qua Hồ Động Đình, lên Sơn Tây Sơn Đông cùng năm người bạn lên núi Thái Sơn "ẩm tửu hàm ca" (uống rượu ca hát), người đời gọi là Trúc khê lục dật (sáu người ẩn dật trong khe trúc). Sau đó được người bạn tiến cử với Đường Minh Hoàng, ông về kinh đô Tràng An ba năm, nhưng nhà vua chỉ dùng ông như một "văn nhân ngự dụng" nên bất mãn, bỏ đi ngao du sơn thủy. Đến Lạc Dương, gặp Đỗ Phủ kết làm bạn "vong niên" (bạn "quên tuổi tác", không coi trọng tuổi tác - Đỗ Phủ nhỏ hơn Lý Bạch 11 tuổi). Họ cùng Cao Thích vui chôi, thưởng trăng ngắm hoa, san bắn được nửa năm. Rồi ông lại tiếp tục chia tay Đỗ Phủ viễn du về phương Nam. Những năm cuối đời ông ẩn cư ở Lô Sơn. Tương truyền năm 61 tuổi ông đi chơi thuyền trên sông Thái Thạch, tỉnh An Huy, uống say, thấy trăng lung linh đáy nước, nhảy xuống ôm trăng mà chết. Nay còn Tróc nguyệt đài (Đài bắt trăng) ở huyện Đăng Đồ (An Huy) là địa điểm du lịch nổi tiếng. Người đời phong danh hiệu cho ông là Thi tiên (ông tiên trong làng thơ), Trích tiên (tiên giáng trần), Tửu trung tiên (ông tiên trong làng rượu)... Khi ông mất, Lý Đăng Dương sưu tầm thơ ông. Theo đó thì nhà thơ làm khoảng 20,000 bài, nhưng ông không để tâm cất giữ nên nay chỉ còn khoảng 1,800 bài. Thơ ông viết về mọi đủ mọi đề tài: vịnh cảnh, thưởng hoa, tình bạn, nỗi khổ đau của người dân, nỗi cay đắng của người vợ trẻ xa chồng (chinh phụ, thương phụ), của người cung nữ, nỗi cô đơn và bất lực trước vũ trụ vô cùng vô tận, nỗi cay đắng vì có tài mà không được dùng... Đề tài nào cũng có những bài tuyệt tác.Đất nước Trung Hoa hiện lên tráng lệ dưới ngòi bút của ông. Sông Hoàng Hà cuồn cuộn chảy ra biển đông như một lực sĩ: Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai Bôn lưu đáo hải bất phục hồi (Tương Tiến Tửu) (Há chẳng thấy nước Hoàng Hà từ trời đổ xuống Chảy tuột biển Đông chẳng quay về) (Hãy cạn chén) Sông Dương Tử (tức Trường Giang) đi vào thơ ông như giải lụa thắt ngang trời: Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu Yên hoa giang nguyệt há Dương Châu Cô phàm viễn ảnh bích không tận Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu (Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng) Bạn từ lầu Hạc lên đường Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng Bóng buồm đã khuất bầu không Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời (Tại lầu Hoàng Hạc tiễn bạn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng) Thác Hương Lô được miêu tả như sông Ngân Hà tuột khỏi mây: Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên, Dao khan bộc bố quải tiền xuyên. Phi lưu trực há tam thiên xích, Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên. (Vọng Lư Sơn Bộc Bố) Nắng rọi Hương Lô khói tía bay, Xa trông dòng thác trước sông này : Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước, Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây. (Xa ngắm thác Hương Lô) Tả cảnh thiên nhiên mà tráng lệ như thế, rõ ràng tác giả đã yêu quê hương, đất nước biết nhường nào. Lòng yêu nước ở Lý Bạch chính là bắt nguồn từ lòng yêu sông núi quê hương vậy. Bài tứ tuyệt thể hiện nỗi lòng nhớ quê hương da diết của ông là bài Tĩnh dạ tư (Trăn trở trong đêm thanh vắng), một bài thơ mà không người Trung Quốc tha phương cầu thực nào không thuộc lòng: "Sàng tiền minh nguyệt quang, Nghi thị địa thượng sơn. Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương." Đầu giường ánh trăng rọi, Mặt đất như phủ sương. Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ cố hương. (Tương Như dịch) Chính vì lòng yêu quê hương, đất nước mà Lý Bạch có lòng đồng cảm sâu sắc với số phận của nhân dân - những người chăm bón vun trồng cho vườn hoa đất nước. Nếu Đỗ Phủ do cuộc đời chìm ngập trong khói lửa loạn ly, do cảm hứng trách nhiệm của một nhà Nho mà chủ yếu nói đến số phận đẫm máu và nước mắt của nhân dân thì Lý Bạch do sống chủ yếu trong thời thịnh vượng của nhà Đường, lại do khát khao cái đẹp, cái bay bổng diệu kỳ của một nhà thơ lãng mạn mà ca ng75i vẻ đẹp của người phụ nữ và nói đến những trăn trở thầm kín của họ. Bất kể đối tượng xã hội nào, nếu là người đẹp, một vẻ đẹp đầy nữ tính đều tạo nên nguồn cảm hứng mạnh cho nhà thơ. Bài Thái liên khúc (khúc hát hái sen) miêu tả cô gái hái sen thoắt ẩn thoắt hiện giữa một không gian đầy hoa, hoa trên đầm sen, hoa dưới nước. Mấy cô thôn nữ đã hiện về như những nàng tiên giáng trần. Ba bài Thanh bình điệu tả vẻ đẹp của nàng Dương quý phi thật mê hồn. Nhưng điều cần nói là trong mắt Lý Bạch, Dương quý phi không hiện lên với vẻ đẹp kiêu sa của một cung phi mà chỉ là một người đẹp trong suốt và ẻo lả. Ta nhớ lời thơ của ông: Nước trong sẽ nở hoa sen Thiên nhiên là đẹp chớ nên vẽ vời Bởi vậy, lòng đồng cảm của ông dành cho phụ nữ là lòng đồng cảm với phái đẹp và cũng là phái yếu. Ông hiểu thấu nỗi trăn trở đầy nữ tính của họ. Bài Xuân tứ nói đến nỗi tê tái của người vợ trẻ có chồng tiễn biệt nơi biên cương: Cỏ Yên vừa nhú tơ xanh Dâu Tần đã rũ lá cành xum xuê Khi chàng tưởng nhớ ngày về, Chính là lúc thiếp tái tê cõi lòng Gió xuân đâu biết cho cùng, Cớ chi len lỏi vào trong màn là? (Cảm xúc mùa xuân) Cái cảm xúc "gió động màn" của người vợ trẻ phòng không gối chiếc ấy, chỉ có người trong cuộc mới có. Chứng tỏ nhà thơ am hiểu sâu sắc nhân vật trữ tình của mình. Cũng như vậy, Tý dạ Ngô Ca nói đến nỗi niềm của người phụ nữ giặt áo bông khi gió heo may về để kịp gửi cho người chinh chiến phương xa. Trường can hành nói đến nỗi sầu bi của người thương phụ, chồng đi xa, lại vì đồng tiền lời mà coi khinh ly biệt (Thương nhân trọng lợi khinh ly biệt). Ngọc giai oán, Vương Chiêu Quân... lại bày tỏ nỗi lòng đồng cảm với cung nữ... Tóm lại chủ nghĩa nhân đạo ở mỗi nhà thơ lại có biểu hiện khác nhau. Ở Lý Bạch, một nhà thơ phóng khoáng bay bổng, ít chịu ảnh hưởng cho Nho gia mà nhiều hơn là Đạo gia và Du hiệp, thì lòng đồng cảm với cái đẹp, sự xót xa trước cái đẹp bị vùi dập, bị chà đạp lại là biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa nhân đạo của nhà thơ. Nhưng trong xã hội xưa, chò dù vào thời kỳ thịnh vượng nhất của nhà Đường, bất công ngang trái vẫn là hiện tượng phổ biến. Bất công ấy đổ lên đầu nhà thơ. Ông ôm ấp chí lớn, muốn làm "con cá vắt ngang biển" (hoành hải ngư), muốn "chém sạch cá kình cá nghê, khơi trong dòng Lạc Thủy (Tặng Trương Tương Cảo), nhưng ông không khỏi thất vọng. Ông nói: "Tôi vốn không bỏ đời mà đời bỏ tôi). Có tài mà không được dùng, có chí mà không nơi thi thố, tâm hồn đa cảm mà bất lực trước xã hội. Điều đó tạo nên những vần thơ u uẩn bất đắc chí của ông. Hàng loạt bài như Hành lộ nan (Đường đời khó khăn), Tương tiến tửu (Hãy cạn chén), Nguyệt hạ độc chước 2 bài (Một mình uống rượu dưới trăng) đã bộc bạch tâm sự ấy. Có lúc ông mượn rượu để giải sầu: Đời người đắc ý cứ say đi Trăng suông chén trống để mà chi Nhưng rồi cái buồn vẫn đeo đẳng, biến thành phẫn uất: Rút dao chém nước, nước vẫn chảy Cất chén tiêu sầu, sầu vẫn sầu Trăng và rượu, tiên và kiếm kết hợp trong tâm tư đầy mâu thuẫn của nhà thơ. Thực trạng ấy khiến có lúc ông buông thả, hành lạc, nhưng chung quy vẫn là tinh thần tiến thủ, vì cái đẹp, vì cuộc sống vẫn quán xuyến tư tưởng nhà thơ.
Tài liệu đính kèm: