Đề tài Bài tập rèn kỹ năng viết đoạn văn chứng minh cho học sinh lớp 7

Đề tài Bài tập rèn kỹ năng viết đoạn văn chứng minh cho học sinh lớp 7

 Trong khi nói hoặc viết ta không thể thuyết phục người khác nếu ta không chứng minh được điều ta nói là có lí, là đúng, là xác đáng Do vậy, chứng minh là một thao tác nghị luận không thể thiếu trong bất kì hệ thống lập luận nào: dù phát biểu cảm nghĩ hay phân tích, dù giải thích hay bình luận thì trong các kiều bài ấy vẫn có chứng minh. Với tư cách là một kĩ năng quan trọng, kiểu bài nghị luận chứng minh có thể coi là kiểu bài cơ sở để học sinh làm tốt các kiểu bài nghị luận khác.

doc 28 trang Người đăng linhlam94 Lượt xem 2239Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Bài tập rèn kỹ năng viết đoạn văn chứng minh cho học sinh lớp 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Phần I: Lí do chọn đề tài 
Phần II: Nội dung
A: Đối tượng, phương pháp nghiên cứu và cơ sở để xây dựng hệ thống bài tập:
 I. Đối tượng nghiên cứu
 II. Phương pháp nghiên cứu 
 III. Cơ sở để xây dựng hệ thống bài tập
 1. Cơ sở lí luận
 2. Cơ sở thực tiễn
B: Bài tập rèn kĩ năng viết đoạn văn chứng minh :
 I. Bài tập nhận biết đoạn văn và đoạn văn chứng minh
 II. Bài tập luyện viết đoạn văn theo chức năng
 1. Lyện viết đoạn mở bài 
 Luyện viết đoạn kết bài
 III. Bài tập luyện các kĩ năng cơ bản của đoạn văn chứng minh
 Bài tập rèn kĩ năng đưa dẫn chứng
 Bài tập xắp xếp dẫn chứng
 Bài tập luyện diễn đạt trình bày
 Bài tập luyện cách liên kết đoạn
Phần III: Kết luận Phần I: Lí do chọn đề tài
 Trong khi nói hoặc viết ta không thể thuyết phục người khác nếu ta không chứng minh được điều ta nói là có lí, là đúng, là xác đángDo vậy, chứng minh là một thao tác nghị luận không thể thiếu trong bất kì hệ thống lập luận nào: dù phát biểu cảm nghĩ hay phân tích, dù giải thích hay bình luận thì trong các kiều bài ấy vẫn có chứng minh. Với tư cách là một kĩ năng quan trọng, kiểu bài nghị luận chứng minh có thể coi là kiểu bài cơ sở để học sinh làm tốt các kiểu bài nghị luận khác. Chứng minh còn là kiểu bài để rèn luyện và phát huy khả năng trình bày rõ ràng, mạch lạc, thuyết phục một vấn đề trong cuộc sống của học sinh. Vậy mà, cũng như các kiểu bài Tập làm văn khác, chứng minh không được học sinh yêu thích cho lắm. Tập làm văn đã và đang là môn học đáng ngại nhất đối với đa số học sinh.
Có thể nói một cách khách quan, kiểu bài nghị luận nói chung và kiểu bài nghị luận chứng minh nói riêng là khó đối với học sinh THCS, nhất là đối với học sinh lớp 7. Có rất nhiều lý do, theo tôi là lý do những năm học tiểu học, học lớp 6 các em đang quen với kiểu văn sáng tác, kể chuyện, biểu cảm... và phải chăng cũng có một lí do nữa là ở cách dạy của giáo viên: bắt học sinh học hàng đống khái niệm, yêu cầu, chú ý, ghi nhớlàm cho các em thấy kiểu bài này thật là xa lạ và rắc rối. Vậy làm thế nào để học sinh có thể viết được một bài văn chứng minh đúng và hay? Câu hỏi đó luôn làm tôi trăn trở mỗi khi giảng dạy kiểu bài nghị luận chứng minh. Để có được một bài văn chứng minh hoàn chỉnh, học sinh được luyện từng kỹ năng với những thao tác cụ thể. Muốn vậy cần có một hệ thống bài tập tốt vừa sức, từ đơn giản đến khó. Qua những bài cụ thể ấy, các em sẽ hiểu rõ hơn mình cần phải làm gì, làm như thế nào để đạt yêu cầu. Tất nhiên, cái đích của các em vẫn là viết một bài văn nghị luận chứng minh hoàn chỉnh. Song thiết nghĩ các em đã được luyện có kỹ năng viết đoạn văn chứng minh đủ, đúng và hay thì con đường đi đến cái đích ấy không mấy khó khăn.
Từ những suy nghĩ trăn trở đó, tôi mạnh dạn trình bày một số kinh nghiệm nhỏ của mình trong việc dạy kiểu bài nghị luận chứng minh với đề tài: "Bài tập rèn kỹ năng viết đoạn văn chứng minh cho học sinh lớp 7”. Với việc áp dụng phương pháp này tôi đã đạt được kết quả khả quan hơn so với 2 năm trước đây. Song đề tài mang tính chất phương pháp cá nhân nên không tránh khỏi sai sót, tôi rất mong nhận đước sự góp ý của đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
 PHẦN II: NỘI DUNG
A. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu và cơ sở để xây dựng hệ thống bài tập:
I. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh khối 7 trường THCS Lê Lợi năm học: 2009 - 2010 và năm học 2010 - 2011
II. Phương pháp nghiên cứu: 
 - Dùng phương pháp hệ thống.
 - Dùng phương pháp đối sánh giữa thực tiễn dạy- học với lý luận dạy học.
 - Dùng phương pháp phân tích - tổng hợp.
 - Dùng phương pháp tích hợp, phối hợp với các phân môn, môn học khác.
 - Dùng phương pháp thuyết minh
 III. Cơ sở để xây dựng hệ thống bài tập:
 1. Cơ sở lí luận.
- Trong các phân môn của bộ môn Ngữ văn, Tập làm văn có vị trí đặc biệt trong quá trình học tập và thi cử. Dạy Văn và tiếng Việt là khó, dạy Tập làm văn lại có những cái khó riêng. Bởi vì, hơn bất cứ phân môn nào, ở đây giáo viên phải đặc biệt coi trọng chủ thể trò, giữ đúng vai trò người hướng dẫn, điều chỉnh để hoạt động tư duy và kỹ năng thực hành của học sinh đi đúng hướng nhằm tiến tới viết (hoặc nói) được văn bản quy định trong chương trình.
Để đảm bảo tính thực hành giáo viên có nhiều hình thức tổ chức hoạt động cho học sinh với nhiều dạng bài tập và có không ít những biện pháp thúc đẩy hoạt động tích cực của học sinh. Chẳng hạn: từ quan sát, bắt chước, nhận biết đến sáng tạo. Trong sáng tạo cũng từ sáng tạo bộ phận đến sáng tạo toàn thể. Dù xây dựng hệ thống bài tập nào cũng luôn nắm vững nguyên tắc: từ bài tập dẫn học sinh rút ra phương pháp làm bài tập làm văn, dùng bài tập để luyện kỹ năng cụ thể.
 Để có thể làm được một bài văn hoàn chỉnh, học sinh cần luyện cách tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn, trong đó kỹ năng viết đoạn là cơ bản nhất. Bởi một bài văn nghị luận chứng minh gồm nhiều đoạn văn, những đoạn văn ấy cùng hướng vào làm sáng tỏ vấn đề cần chứng minh. Và điều quan trọng là không phải cách viết đoạn văn nào cũng giống nhau mà phụ thuộc vào yêu cầu, chức năng, vai trò của đoạn văn để có cách viết phù hợp. Qua đoạn văn chứng minh cụ thể, làm cho học sinh có được thao tác chứng minh: nêu luận điểm (câu chốt), cách đưa và sắp xếp dẫn chứng, cách phân tích dẫn chứng... một cách rõ ràng, mạch lạc, có sức hấp dẫn và thuyết phục. Đó chính là những yếu tố cơ bản của kiểu bài nghị luận chứng minh.
Nói tóm lại, không thể có một bài văn chứng minh đúng và hay nếu như không dạy các em kỹ năng viết đoạn văn chứng minh. 
 2. Cơ sở thực tiễn.
- Chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 7 đã thể hiện được yêu cầu tích hợp ba phân môn Văn - Tiếng việt - Tập làm văn, tuy nhiên vẫn phải luôn tạo điều kiện cho việc đảm bảo yêu cầu riêng có tính chất tương đối độc lập của mỗi phân môn. Kiểu bài nghị luận chứng minh chương trình Ngữ văn 7 dành 4 bài với thời lượng là 5 tiết:
Tiết 87, 88	: Tìm hiểu chung về phép lập luận chứng minh.
Tiết 91	: Cách làm bài văn nghị luận chứng minh.
Tiết 92	: Luyện tập lập luận chứng minh.
Tiết 100	: Luyện tập viết đoạn văn chứng minh.
Nhìn vào chương trình và quá trình thực dạy, tôi nhận thấy chương trình có hướng đổi mới đó là chú ý đến kỹ năng thực hành luyện kỹ năng cho học sinh để có thể viết được một bài văn chứng minh.
- Trong thực tế, việc viết đoạn văn của học sinh còn rất kém, nhất là văn nghị luận đối với các em học sinh lớp 7 - vốn đã quen với những đoạn văn tự sự, miêu tả, biểu cảm. Trong giờ dạy, giáo viên yêu cầu viết đoạn văn là các em rất ngại thậm chí ngại hơn viết cả bài. Vì viết cả bài không được ý nọ còn được ý kia, còn nếu viết đoạn mà không biết cách viết sẽ không thành một đoạn văn cụ thể là đoạn văn chứng minh theo yêu cầu.
- Với người giáo viên, sách giáo khoa vẫn là tài liệu quan trọng. Sách giáo khoa cung cấp cho người học những nguyên tắc, yêu cầu cần phải đạt tới của kiểu bài, của từng kỹ năng. Cho nên, vận dụng tốt sách giáo khoa là yêu cầu mà tất cả các giáo viên phải thực hiện. Vì vậy, tôi đã nghiên cứu kỹ sách giáo khoa và đặt ra tiêu chí khi dạy bài nghị luận chứng minh:
+ Coi từng tiết dạy mà sách giáo khoa đã chia và sắp xếp theo từng bài là yêu cầu cần đạt của học sinh.
+ Bài tập nào của sách giáo khoa tốt thì tôi sử dụng khai thác, bài tập nào chưa hay thì không bắt buộc học sinh phải làm.
+ Tôi quan niệm: bài tập rèn kỹ năng viết đoạn tốt phải vừa sức với tâm lý và nhận thức của lứa tuổi học sinh, phải thể hiện được tính chất, yêu cầu tích hợp của bộ môn.
Dựa trên những cơ sở đó, tôi xác lập một hệ thống bài tập cụ thể như sau:
I. Bài tập nhận biết đoạn văn chứng minh.
II. Bài tập luyện viết đoạn văn theo chức năng: đoạn mở bài, đoạn kết bài.
III. Bài tập luyện các kỹ năng cơ bản để viết đoạn văn chứng minh:
1. Bài tập chọn dẫn chứng.
2. Bài tập sắp xếp dẫn chứng.
3. Bài tập phân tích dẫn chứng.
4. Bài tập diễn đạt.
5. Bài tập chữa lỗi sai.
Dạng bài tập chữa lỗi sai như sai về dẫn chứng, sai về diễn đạt, trình bày..., tôi kết hợp đưa vào cùng với các dạng bài trên.
Với hệ thống bài tập như trên, tôi sử dụng để:
- Vào bài mới.
- Dạy trên lớp - củng cố lý thuyết.
- Dạy trong giờ rèn luyện kỹ năng.
- Giao bài về nhà để học sinh luyện viết.
B. Một số bài tập rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn chứng minh:
Trước khi luyện viết đoạn văn, học sinh đã được rèn kĩ năng tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý cho một bài văn chứng minh cụ thể. Chính vì vậy, ở phần này, tôi chỉ đưa ra hệ thống bài tập với mục đích rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn chứng minh.
I. Bài tập nhận biết đoạn văn chứng minh:
Thực tế, học sinh đã biết một đoạn văn qua tìm hiểu các văn bản (giờ văn học), qua các tiết học tiếng Việt với yêu cầu viết đoạn văn. Nhưng với học sinh lớp 7, chưa có tiết học dành riêng cho việc tìm hiểu thế nào là đoạn văn. Vì vậy, để giúp các em hiểu rõ, nắm vững thế nào là đoạn văn, tôi ra dạng bài tập này:
Bài tập 1: Những tập hợp sau đây có thể coi là đoạn văn không?
a. Hồ Chí Minh là một trong những tên tuổi sáng ngời nhất của dân tộc Việt Nam. "Những trò lố hay Va ren và Phan Bội Châu" là tác phẩm viết bằng tiếng Pháp của Người.
b. Bài thơ "Qua đèo Ngang" là bức tranh đẹp về một vùng non nước. Cụm từ "Ta với ta" tả nỗi buồn của một con người, cảm thấy lẻ loi, cô đơn giữa một không gian bao la trời mây nước. Đọc "Qua đèo Ngang" ta được thấy phong cách thơ trang nhã, điêu luyện rất tiêu biểu cho thơ Đường luật của Bà Huyện Thanh Quan.
c. Gần trưa, chúng tôi mới đến trường học, tôi dắt em đến lớp 4B, cô giáo Tâm đang giảng bài. Chúng tôi đứng nép vào gốc cây trước cửa lớp, em cắn chặt môi im lặng, mắt lại đăm đăm nhìn khắp sân trường từ cột cờ đến tấm bảng tin và những vạch than vẽ ô ăn quan trên hè gạch. Rồi em bật khóc thút thít.
(Khánh Hoài - Ngữ văn 7)
Hướng dẫn:
Học sinh sẽ nhận ra cả ba tập hợp trên xét về hình thức là đoạn văn. Xét về nội dung (a), (b) chưa đảm bảo.
+ Hai câu văn tập hợp (a) chưa có sự liên kết.
+ Tập hợp (b) có vẻ mang dáng dấp của một đoạn văn khá rõ với câu đầu tiên như là một câu có vai trò mở ra đề tài của đoạn. Nhưng những câu viết sau không gắn bó gì với đề tài ấy (mặc dù cả 3 câu đề viết về bài thơ Qua đèo Ngang).
Chỉ có tập hợp (c) xét về cả nội dung và hình thức đảm bảo là một đoạn văn (nội dung: kể việc anh em Thuỷ, Thành đến trường chia tay cô giáo).
Giáo viên chốt (cung cấp kiến thức): Vậy đoạn văn là thế nào?
“Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành.”
(Ngữ văn 8- tập I)
Khi đã có khái niệm về đoạn văn, các em cần phân biệt đoạn văn chứng minh khác với các đoạn văn  ... ứng này cho lập luận ấy.
Để viết hay, hấp dẫn, người viết phải biết trình bày linh hoạt giữa hai yếu tố: dẫn chứng và phân tích. Có thể thực hiện theo các cách sau: 
 - Dẫn chứng - phân tích.
- Phân tích - dẫn chứng.
- Phân tích - dẫn chứng - phân tích.
Bài tập 1: Giáo viên đưa ra tình huống - Học sinh thảo luận
Có người nói: "Làm văn chứng minh cũng dễ thôi, chỉ cần nêu luận điểm và dẫn chứng là xong". Ví dụ sau khi nêu luận điểm "Tiếng Việt ta giàu đẹp", chỉ cần dẫn ra câu ca dao :
 Trong đầm gì đẹp bằng sen. 
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng...
Theo em, nói như vậy có đúng không? Để làm được văn chứng minh, ngoài luận điểm và dẫn chứng, còn cần phải có thể điều gì? Có cần chú ý tới chất lượng của luận điểm và dẫn chứng không? Chúng cần phải như thế nào thì đạt yêu cầu? 
Hướng dẫn:
Giáo viên lưu ý cho học sinh thấy là qua câu trả lời, người nói tỏ ra không hiểu về cách làm văn lập luận chứng minh. Chứng minh trong văn nghị luận đòi hỏi phải phân tích, diễn giải sao cho dẫn chứng "nói lên" điều mình muốn chứng minh. Điều cần lưu ý nữa là dẫn chứng phải tiêu biểu. Câu ca dao trên làm theo thể lục bát, tiêu biểu cho Tiếng việt đẹp về thanh điệu, vần nhịp nhưng phải diễn giải thì điều cần chứng minh ở đó mới có sức thuyết phục.
Bài tập 2: (Chữa lỗi diễn đạt, trình bày). Có bạn học sinh đã viết một đoạn của đề bài chứng minh: "Ca dao là tiếng hát về tình cảm gia đình đằm thắm và ngọt ngào" như sau:
Những câu ca dao nói về tình cảm giữa con cháu và ông bà tổ tiên của mình:"Chim có tổ người có tông".
Câu ca dao này cho cho thấy mọi người khi sinh ra thì ai cũng phải có nguồn gốc tổ tiên của mình.
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu.”
 Tình cảm của con cháu đối với ông bà được câu ca dao này nói tới.
Hãy nêu nhận xét của em về đoạn văn trên?
Hướng dẫn:
- Đoạn văn đã triển khai luận điểm: Ca dao là tiếng hát về tình cảm giữa con cháu đối với ông bà.
- Cách diễn đạt vẫn chưa đạt yêu cầu.
+ Lý lẽ nói ca dao, dẫn chứng nêu là tục ngữ ® sai về thể loại.
+ Giữa 2 dẫn chứng không liền mạch, cách đưa dẫn chứng giống nhau (dẫn chứng - phân tích).
+ Lời phân tích thuyết minh còn chung chung, còn rất vụng - không có sức thuyết phục, sức lay động lòng người.
Sau khi nghe hướng dẫn, học sinh đã viết:
Ca dao dành những lời trân trọng, thành kính nhất để nói về ông bà, tổ tiên của mình, ông bà là gốc của gia đình, cháu con luôn ghi nhớ công ơn phúc lộc mà ông bà để lại:
“Con người có cố, có ông
Như cây có cội như sông có nguồn.”
Cây có cội mới sống được, sông có nguồn mới có nước, mới thành sông. Mượn hình ảnh ẩn dụ "cội", "nguồn" câu ca dao muốn nói đến lòng biết ơn sâu sắc của con cháu đối với công ơn lớn lao của ông bà, tổ tiên. Và tình cảm nhớ thương ông bà là tình cảm con cháu luôn giữ gìn.
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu.”
Mới ngó lên những mối buộc "nuộc lạt mái nhà" mà trong lòng con cháu đã trào dâng bao nỗi niềm nhớ thương. Phép so sánh "bao nhiêu..... bấy nhiên" diễn tả tình cảm đó thật sâu nặng và nồng nàn biết bao!
Qua đoạn văn tham khảo, tôi muốn nhắc nhở các em phải linh hoạt, sáng tạo nhiều hơn khi viết đoạn văn chứng minh. 
4. Bài tập luyện cách liên kết đoạn.
- Đoạn văn không tồn tại độc lập, riêng biệt mà chỉ là một bộ phận của bài văn, khi viết đoạn, phải xác định xem đoạn văn ấy nằm ở vị trí nào của bài văn, có thế mới tạo được sự liên kết, liền mạch của bài viết.
- Học sinh không chỉ viết đoạn tốt mà giữa các đoạn trong văn bản , kỹ năng liên kết đoạn cũng rất cần thiết.
Bài tập 1: Tìm hiểu cách liên kết đoạn của hai đoạn văn trong văn bản "Tinh thần yêu nước của nhân dân ta".
“Lịch sử ta đã có những cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng.
Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước. Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm, từ nhân dân miền ngược đến miền xuôi, ai cùng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc..."
Hướng dẫn:
- Hai đoạn văn cùng hướng về nội dung: Tinh thần yêu nước của nhân dân ta.
+ Đoạn 1: Tinh thần yêu nước của nhân dân trong quá khứ.
+ Đoạn 2: Tinh thần yêu nước của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Hai đoạn văn liên kết liền mạch không chỉ bằng nôi dung của các câu văn mà tác giả còn sử dụng câu chuyển ý rất tự nhiên: "Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước". Không chỉ có tác dụng liên kết mà còn diễn tả được lịch sử dân tộc anh hùng mang truyền thống yêu nước từ ngàn xưa được nối tiếp trong dòng chảy của thời gian, trong mạch nguồn sức sống của dân tộc.
Bài tập 2: Cho đề văn sau
Qua bài: "Một thứ quà của lúa non: Cốm" và "Mùa xuân của tôi" hãy chứng minh: Dù viết về một thứ quà bình dị hay về kỷ niệm của một người xa quê thì chỗ hay nhất của những áng văn xuôi ấy vẫn là tâm tình sâu nặng, thiết tha đối với quê hương đất nước.
Có bạn đã viết 2 đoạn văn cho đề trên như sau:
Qua ngòi bút Thạch Lam trong bài "Một thứ quà của lúa non: Cốm" và của Vũ Bằng trong bài "Mùa xuân của tôi" ta có thể nhận thấy: "Chỗ hay nhất của những áng văn xuôi ấy vẫn là tâm tình sâu nặng, thiết tha với quê hương đất nước". Thạch Lam đã gửi gắm tình cảm của mình trong cảm giác nhẹ nhàng, tinh tế, trong lành về màu cốm. Thoáng đi qua đầm sen hay đồng lúa, Thạch Lam đã nhớ cốm và cảm nhận được bước chân mùa cốm đang về. Với lòng yêu đất mẹ, nhà văn đã khẳng định: "Cốm là thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát".
(...) Ta hãy cảm động lắng nghe Vũ Bằng nhớ về mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội. Nhà văn nghĩ về cái tình yêu, nỗi nhớ rất tự nhiên của con người: "Ai bảo bướm đứng thương hoa, trăng đứng thương gió..." để rồi khẳng định nỗi nhớ niềm yêu rất con người của mình. Đọc văn của Vũ Bằng, ta cũng xúc động nao nao nhớ Hà Nội, như gặp một kỷ niệm nào trong nỗi nhớ của ông. Ôi cái "mưa riêu riêu, gió lạnh lạnh ... tiếng trống chèo..." làm sao không rung động nỗi lòng, làm sao lại không đồng cảm với nỗi nhớ của người xa xứ được?
Em hãy giúp bạn chọn một trong những câu sau điền vào chỗ trống (...) để làm cho hai đoạn văn liên kết với nhau.
A. Thưởng thức một thứ quà bình dị là niềm yêu thương tha thiết của Thạch Lam, còn với Vũ Bằng - người con xa xứ - nhớ về quê hương lại là một niềm hạnh phúc lớn lao.
B. Tâm tình sâu nặng thiết tha của Thạch Lam là như vậy, còn 
 với Vũ Bằng thì sao?
C. Đọc bài "Mùa xuân của tôi" các bạn sẽ thấy rõ điều đó.
D. "Mùa xuân của tôi" của Vũ Bằng cũng thật sâu nặng thiết tha 
 đối với quê hương.
Hướng dẫn: Đáp án A, B, D.
Bài tập này nên chọn nhiều đoạn khác nhau để học sinh được rèn kỹ năng liên kết câu, liên kết đoạn.
- Có nhiều cách liên kết đoạn (liên kết nội dung, liên kết hình thức...)
 + Các câu viết trên là liên kết nội dung.
 + Có thể dùng những quan hệ từ, những phụ từ để liên kết (nhưng,
 và, cũng...).
Bài tập 3: Hãy viết hai đoạn văn chứng minh trình bày hai ý sau:
1. Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có.
2. Văn chương luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có.
Ngoài những kỹ năng viết đoạn văn đã được rèn luyện nhiều, bài tập này chú ý kỹ năng liên kết đoạn. Với hai đoạn văn này, học sinh có thể dùng những câu liên kết đoạn như sau:
- Văn chương không những gây ra cho ta những tình cảm mà ta không có mà còn luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có.
- Không chỉ đem đến cho ta những tình cảm ta không có mà văn chương còn làm cho những tình cảm ta sẵn có trở nên sâu sắc và thiết tha hơn.
Qua quá trình tìm tòi, học hỏi, tôi đã tiếp thu được những ý kiến bổ ích để làm hành trang cho mình. Như thạc sĩ Vũ Băng Tú nói: “Dạy Tập làm văn thực chất là dạy thực hành viết văn. Dẫu chỉ là những bài tập nhỏ trong chương trình. Học sinh không chỉ hiểu và thuộc lí thuyết là viết được. Điều chủ yếu là kĩ năng vận dụng ngôn ngữ biểu đạt tư tưởng. Bởi thế, người học phải được thực hành rất nhiều. Biết tổ chức quá trình thực hành, kiên nhẫn uốn nắn những chỗ sai sót của học sinh trong quá trình luyện tập là không thể thiếu ở năng lực sư phạm và phẩm chất nghề nghiệp của người giáo viên dạy Tập làm văn”. Hệ thống bài tập này cũng là một cố gắng để vươn tới mục tiêu đó. 
 	 PHẦN III: KẾT KUẬN 
 Văn chứng minh là kiểu bài rất quan trọng của văn nghị luận. Vậy làm thế nào để học sinh có thể làm tốt bài văn nghị luận? Làm thế nào để học sinh diễn đạt mạch lạc, rõ ràng một vấn đề? Điều đó có thể thực hiện được khi giáo viên có hệ thống bài tập tốt rèn kỹ năng viết văn chứng minh đúng, hay, có sức thuyết phục. Qua việc áp dụng hệ thống bài tập trên đây với học sinh lớp 7D, 7E năm học 2009 - 2010 và học sinh khối 7 năm học 2011 - 2012 Trường THCS Lê Lợi tôi nhận thấy kết quả khả quan:
- Trước hết là sự hào hứng vì học sinh không phải nghe và ghi nhớ quá nhiều lý thuyết mà từ những bài tập cụ thể học sinh có thể rút ra phương pháp luyện được kỹ năng viết đoạn văn chứng minh đúng, hay; viết bài văn nghị luận chứng minh hoàn chỉnh.
- Chất lượng học tập của học sinh được nâng lên rất nhiều. Kết quả bài kiểm tra tập làm văn nghị luận chứng minh (Bài viết số 5), lớp 7D, 7E(2009 - 2010) chỉ đạt 55% trên trung bình, khối 7(2010 - 2011) đạt 70% trên trung bình trong đó có gần một nửa số học sinh đạt điểm khá trở lên.
- Và trong năm học này điều đáng chú ý là một số em trước đây không viết được một đoạn văn hoàn chỉnh thì bây giờ cũng dễ dàng viết được đoạn, bài văn đạt yêu cầu.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của tôi khi dạy kiểu bài nghị luận chứng minh, nhất là rèn kỹ năng viết đoạn văn chứng minh cho học sinh lớp 7. Tôi nghĩ, muốn chất lượng đạt yêu cầu, ngoài phương pháp trên, giáo viên phải căn cứ vào từng đối tượng cụ thể, nắm chắc khả năng trình độ của học sinh mình thì kết quả đạt được con đáng khích lệ hơn.
Trong quá trình trình bày bài viết, khó tránh khỏi những khiếm khuyết, tôi mong muốn nhận được sự góp ý chân thành của các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cám ơn!
Người thực hiện:
Đỗ Thị Trâm Anh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu của hội thảo khoa học “ Đổi mới phương pháp dạy học môn Văn - Tiếng Việt, góp phần nâng cao chất lượng giáo viên THCS”.
Sách giáo khoa Ngữ văn 6.
Sách giáo khoa Ngữ văn 7.
Sách giáo khoa Ngữ văn 8.
Sách giáo viên Ngữ văn 7.
Sách giáo viên Ngữ văn 8.
Tài liệu hướng dẫn chương trình Ngữ văn 7.
Tài liệu hướng dẫn chương trình Ngữ văn 8.
Một số bài viết của học sinh.

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn viết đoạn văn nghị luận lớp 7.doc