Đề tài Một cách tiếp cận văn bản “ ý nghĩa văn chương ” ngữ văn 7

Đề tài Một cách tiếp cận văn bản “ ý nghĩa văn chương ” ngữ văn 7

Lúc sinh thời tố hữu đã gữi cụ Nguyễn Du nhưng vần thơ xúc động “Tiếng thơ ai động đất trời”

Vì sao tiếng thơ của cụ Nguyễn Du lại có sức lay động lòng người đến thế.

Vì sao những kiệt tác văn chương lại có sức sống lâu bền với thời gian đến thế !

Bài “ ý nghĩa văn chương” của Hoài Thanh sẻ giúp học sinh thấy được điều đó _ cuộc đời không thể thiếu văn chương, văn chương quan tâm đến tất cả những gì thuộc về con người.

 

doc 7 trang Người đăng linhlam94 Lượt xem 630Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Một cách tiếp cận văn bản “ ý nghĩa văn chương ” ngữ văn 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một cách tiếp cận văn bản “ ý nghĩa văn chương ” ngữ văn 7.
A. xuất phát điểm vấn đề:
Lúc sinh thời tố hữu đã gữi cụ Nguyễn Du nhưng vần thơ xúc động “Tiếng thơ ai động đất trời”
Vì sao tiếng thơ của cụ Nguyễn Du lại có sức lay động lòng người đến thế.
Vì sao những kiệt tác văn chương lại có sức sống lâu bền với thời gian đến thế !
Bài “ ý nghĩa văn chương” của Hoài Thanh sẻ giúp học sinh thấy được điều đó _ cuộc đời không thể thiếu văn chương, văn chương quan tâm đến tất cả những gì thuộc về con người.
Mặt khác điều đáng lo ngại nhất hiện nay đối với giáo viên dạy bộ môn ngữ văn là cách làm một bài văn nghị luận của học sinh, chính vì vậy những bài văn nghị luận chiếm phần lớn trong chương trình ngữ văn 7 tập 2. Bài “ý nghĩa văn chương” trong chùm văn nghị luận là bài hay và được đưa vào chương trình dạy khó, không những giúp học sinh hiểu được ý nghĩa văn chương, đề cao trân trọng văn chương mà nó còn giúp học sinh học được phong cách nghị luận qua cách viết nghị luận văn chương độc đáo của Hoài Thanh. điều đó tác động đến học sinh ở mức độ nào lại phụ thuộc bài giảng của học sinh. Sau khi nghiên cứu, tìm ra mạch bài để học sinh tiếp thu có hiệu quả tốt, tôi xin được trình bày định hướng khai thác văn bản” ý nghĩa văn chương” của Hoài Thanh.
B. phần nội dung vấn đề:
I. khảo sát chương trình.
 Trong chương trình ngữ văn lớp 6 và học kì I lớp 7, học sinh đã được tiếp xúc với văn bản thuộc các thể loại truyện kí ( lọai hinh tự sự) và các thể loại thơ trữ tình, tuỳ bút ( loại hình trữ tình ), phần văn bản nghị luận rất quan trọng chiếm vị trí đặc biệt trong chương trình học kì 2 ở lớp 7 .
Cụm bài nghị luận được học gồm có 4 bài, qua văn bản “ý nghĩa văn chương” giáo viên phai là cho học sinh nhận ra được phương pháp lập luận ở đây là giải thích ( kết hợp bình luận) về kiểu nghị luận văn chương, từ luận cứ luậ điểm thấy được nghệ thuật lập luận tài tình độc đáo trong phong cách nghị luận của Hoài Thanh, từ đó cảm nhận vè sức mạnh của văn chương đối với con người.
II. Thực trạng dạy bài thơ:
 Văn bản này thuộc kiểu văn bản nghị luận do vậy khi dạy văn bản này nếu không tìm và hiểu được mạch bài sẻ sa vào dạy văn mà như tập làm văn: khô, cứng nhắc bởi nó liên quan đến luận điểm, luận cứ học sinh sẻ cảm thấy không có sự mượt mà của văn chương trong đó. Nhưng nếu cứ đi tìm ý chi tiết sau đó nâng khái quát vấn đề lên lại dẫn đến không khắc sâu cách lập luận của tác giả và khó đạt được theo mục đích yêu cầu của văn bản. thực tế một số giáo viên chỉ dạy theo mạch 1 trong 2 bài trên . Sách giáo viên ngữ văn 7 tập 2 NXB GD cũng chỉ đi sâu vào lý giải ý nghĩa văn chương mà chưa đề cập đến cách xây dựng luận chứng, luận cứ để làm cơ sở cho luận điểm . Chính vì vậy , tôi đã kết hợp cả hai khía cạnh trên để dẫn dắt học sinh hiểu được quan niệm của Hoài Thanh về nguồn gốc cốt yếu nhiệm vụ và tác dụng của văn chương trong lịch sữ loài người. Gợi _ hỏi để học sinh nắm được cách lập luận của Hoài Thanh một mặt đưa các dẫn chứng văn thơ các em đã học ở lớp dưới và ngoài chương trình minh hoạ để tháy được cái hay cái mượt mà và ý nghĩa khi học văn bản nghị luận. Thấy được phần nào cách lập luận độc đáo của Hoài Thanh.
III. Phần chuẩn bị:
Một số yếu tố ngoài văn bản mà giáo viên cần nghiên cứu để hỗ trợ cho bài giảng.
 _ Cuộc đời: Hoài Thanh tên thật là Nguyễn Đức Nguyên, sinh ngày 15/ 7 /1909 , xã Nghi Trung, Huỵen Nghi Lộc, Tĩnh Nghệ Tĩnh.
Hoài Thanh xuất thân từ một gia đình nhà nho nghèo yêu nước. Bác ruột là cụ Nguyễn Đức Công tham gia phong trào xuất dương hưởng ứng lời hô hào của cụ Phan Bội Châu, sau bị pháp bắn và xử bắn. được nuôi dưỡng trong môi trường yêui nước từ bé, lớn lên đi học ở trường Quốc Học Vinh, anh là một trong nh ững học sinh hăng hái tham gia hoạt động yêu nước trong nhà trường. Năm 1927 than gia đảng Tân VIệt. Năm 1929 tổ chức vỡ, anh bị bắt khi đang theo học trường bưởi, sau đó bị trục xuất về quê. đó cũng là những năm phong trào chống pháp bị khủng bố mạnh. Cuộc bạo động Yên Thế và phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh lần lượt thất bại. Người thanh niên yêu nước những yếu đuối ấy mất phương hướng, hoang mang, không tìm thấy ngõ thoát. Giữa lúc đó, văn chương lãng mạn ra đời. Thế là như người chết vớ được cọc, anh lao vào văn chương, tính lấy chuyện văn chương làm cứu cánh cuộc đời, những tưỡng đấy cũng là một ccáh để chứng tỏ lòng tha thiết với giống nòi, với đất nước “ có thể nói tôi đã tìm thấy ở đó có một chút vui, chút ánh sáng. Tôi bỗng phát hiện ra rằng không đánh tây, không làm cách mạng, vẫn có một con đường sống, vẫn có thể làm được việc này việc nọ ”.
 Ông là một trong những người tham gia, có thể nối là kiên nhẫn nhất, cuộc tranh luận về nghiệ thuật vào nhưng năm 30. Ông rất say mê văn chương ông yêu nghệ thuật như một lý tưởng, có quan điểm hẳn hoi, chứ không phải yêu nước vu vơ, gặp hay chăng chớ.
 Cách mạng tháng 8 bùng nổ. Hoài Thanh cùng với nhiều nhà văn khác hào hứng đi theo cách mạng. Cách mạng đã đổi cách sống của nhà văn, do đó đổi cả cách nhìn cách cảm nghĩ đậm màu sắc tiểu tư sản của ông xưa kia. Hoài Thanh giờ đây mới cảm thấy thực sự sung sướng thỏai mái .
Hoài Thanh là người khai mạc nền phê bình văn học Việt Nam hiện đại với Hoài Thanh, ông không muốn ai gọi nhà phê bình nhưng lại làm cái việc không thể gọi khác gì ngoài phê bình. Người ngại lý luận, lại phải làm từ rất sớm công việc lý luận. ông là phê bình tinh tế, tài hoa, nhiều kinh nghiệm có thể keer vào bậc nhất từ cách mạng tháng 8 đến nay.
Những bài viết, những bài nói, những bài giảng của ông đã góp phần giúp đông đảo bạn đọc cảm nhận được cái hay cái đẹp trong văn thơ của dân tộc, nhất là rong văn thơ hiện đại.
 Hoài Thanh quan niệm văn chươgn chỉ là một bộ phận. Ông muốn giao cho văn chương chỉ riêng mục tiêu tìm cái đẹp, tức là cái ý nghĩa thiêng liêng vượt lên mọi yêu cầu thời thượng để hướng tới các giá trị vĩnh cửu. Và nhờ vậy con người trong văn chương như ông muốn không phải là con người cụ thể mang khuôn mặt đạo đức trang nghiêm của nhà nho hoặc bộ quần áo rách rưới của lao động. Con người đó phải được nâng lên con người viết, con người nhân loại.
 Hoài Thanh luôn luôn khẳng định ông không chủ trương “ nghệ thuật vị nghệ thuật”. Ông muốn văn chương là văn chương. Nếu ở đời này có một điều nghiêm trọng vì luôn luôn đi bên cạnh những sự huyền bí bao trùm người ta và vũ trụ, điều ấy là văn chương. ( ý nghĩa văn chương, sách văn chương hành động).
 Hoài Thanh nói, cảm nhận về cái đẹp và giá trịvăn chương là một chuyện trừu tượng, không dễ do đếm; sơ giảm và thô thiện hoá tác dụng này, đó chính là điều Hoài Thanh không chấp nhận được trong những bài phê phán của ông. Nhưng trừu tượng không phải là thần bí đến độ phải thắp hương tụng niệm, cũng không thể là bất khả tri...
 Ông quan niệm văn chương phải được tự do, tự do trong văn chương cũng có nghĩa là cho nhà văn được thành thực với mình. Nét nỗi bật cũng như phãm chất đáng quý nhất trong con người cũng như trong ngòi bút của Hoài Thanh là sự chân thành.
 Hoài Thanh luôn tìm thơ hay để bình, ông nói những bài nói bài viết của mình là bình thơ, chứ không phải là phê bình. Ông biết dừng lại đúng chỗ để dành phần suy nghĩ cảm xúc người đọc. ông phân tích rạch ròi tác dụng của văn học đói với con người.Ông quan niệm rõ thơ tức là người. “Thích một bài thơ theo tôi nghĩ, trước hết là thích một cách nhìn, một cách nghĩ, một cách cảm xúc, một cách nói, nghĩa là trước hết thích một con người”.Chính vì vậy Hoài Thanh đã tạo được một phong cách riêng đặc sắc , có sức thấm sâu vào tâm hồn người đọc, người nghe. Người ta thường nói đến cái duyên thầm kín đáo mà ý nhị của ông.
Tác phẩm:
 Hoài Thanh viết không nhiều, vừa phê bình tiểu luận, vừa nghiên cứu bút kí, tất cả 15 tác phẩm. So với những gì ông đã tích luỹ đực trong suốt cuộc đời gắn bó với thơ, ta nghĩo rằng ông có thể viết được nhiều công trình hơn nữa kể cả những công trình có quy mô lớn. Song ông đã không có điều kiện để thực hiện mong ước đó của bạn đọc và của chính ông. Nhưng ông đã để lại trong lòng nhiều thế hệ người đọc ấn tượng, tín nhiệm sâu sắc, đặc bệt làm cho người đọc thấm sâu về ý nghĩa văn chương. Quả thật là tài hoa, độc đáo!
2.định hướng khai thác bài thơ:
 Sau khi cung cấp những nét cơ bản về tác giả ( vì thời gian theo phân phối chương trình không chỉ đủ đáp ứng truyền thụ kiến thức trên, gioá viên ngoại khoá ngoài giờ).
 Hướng dẫn học sinh tìm hiểu chung về văn bản : Đọc văn bản và phần chú thích văn bản.
Chú ý các từ sau:
- Cốt yếu: Chính – quan trọng nhất.
- Công dụng : Lợi ích mang lại khi được đem dùng .
- Muôn hình vạn trạng: Cuộc sống phong phú muôn hình muôn vẻ đa dạng nhiều dáng vẻ.
Tác giả: Chốt.
- Nhà văn , nhà phê bình tài hoa.
- Quê xứ nghệ.
- Tên tuổi bất tử với “Thi nhân Việt Nam”
Vị trí: 
- Vị trí trong cụm bài nghị luận:
+ Quan trọng
+ Nghị luận văn chương
+ Lập lậu giải thích.
 Đây là một bai nghị luận khác với các văn bản trước vì là đoạn lược trích nên bố cục chia 2 phần: 
+ Từ đầu đén vị tha( nguồn gốc thi ca)
+ Còn lại ý nghĩâ văn chương.
 Tác giả khám phá ý nghĩa văn chương trên 3 phương diện:
+ Nguồn gốc văn chương
+ Nhiệm vụ 
+ Công dụng.
Văn bản:
 Trong văn bản “ ý nghĩa văn chương” tác giả đưa ra 3 luận điểm.
- Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người, thương cả muôn vật.
- Văn chương bắt nguồn từ cảm xúc.
- Văn chương giúp có tình cảm, gợi lòng vị tha.
 Với 3 luận điểm trên tác giả lập luận chặt chẽ, mềm dẻo khéo léo không áp đặt. Dẫn chứng ở mỗi luận điểm được đặt ở mỗi vị trí khác nhau. Lúc đầu đoạn (luận điểm 1), lúc cuối đoạn hoặc xem kẽ. Tuỳ từng luận điểm để dẫn chứngđể giải thích vấn đề (luận điểm 3). Rất linh hoạt sâu sắc, thuyết phục lòng người. Từ đây để học sinh thấy được nét độc đáo trong phong cách viết văn nghị luận của Hoài Thanh.
A – Câu chuyện :
 Thông thường ở bài văn nghị luận là nêu ý khái quát chung toàn bài nhưng Hoài Thanh đưa ra dẫn chứng là câu chuyện với cảnh tượngvô cùng cảm động cảnh con chim bị thương, rơi xuống giẫy dụa bên chân chàng thi sĩ. Thi sĩ thương con chim hiền lành, bé bỏng, vô tội đã khóc nức lên. thế rồi tiếng nức nở, đau đớn của trái tim chàng thi sĩ đã hoà nhịpvới sự run rẫy của con chim sắp chết, để giải thích cho nguồn gốc thi ca , bỡi đằng sau tiếng khóc đau đớn nghẹn ngào ấy có thêt sẻ là một thi phẩm nổi tiếng, một kiệt tác văn chương ra đời. Vào bài rất nhệ nhàng độc đáo, mang tính chất hình tượng. Tức giải thích cho mọi ván đề chứ không bao hàm – giải thích nguồn gốc cốt yếu của văn chương – phải chăng đó chính là dấn chứng cho luận điểm thứ nhất.
B – nội dung ý nghĩa văn chương.
 Với luận điểm 1: Nguồn gốc cốt yếu của vật chất là lòng thương người thương cả muôn vật.
 Tác giả khẳng định bằng cụm từ cốt yếu. Như vậy nó là gốc chính, quan trọng nhất nhưng không phải là duy nhất. Tác giả không áp đặt nhưng lại rất chặt chẽ mềm dẻo. Vì văn thơ là tiếng nói đồng cảm, chia sẻ, yeu thương được cất lên thành lời. Mỗi khi trái tim ta rung động trước đời đó là khi ta có thể dâng tặng cho đời những tác phẩm văn chương chân chính. Lê Quý Đôn nói “ Văn chương khởi phát từ trong lòng người là chính ”.
 Giáo viên lấy các dẫn chứng” Sau phút chia ly” của Đặng Trần Côn để minh hoạ, gây hứng thú cho học sinh, tránh sa vào phương pháp dạy tập làm văn khô khan.
 Giáo viên tiếp tục đưa ra ví dụ minh hoạ không phải là duy nhất. Đó là những quan niệm văn chương bắt nguồn từ cuộc sống con người. Nó nảy sinh trong lao động sản xuất,lao động, và có ý nghĩ trong cuộc sống. Như chúng ta đã biết, văn học dân gia có từ lâu đời. Ông bà cha mẹ từ xa xưa đã khuyên răn con cía với những lối nói mượt mà, điệu hò câu hát:
“ Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu”
 Biết ơn người gieo hạt, công sức lao động:
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dợo thơm mọtt hạt đắng cay muôn phần”
 Tuy khác nhau, nhưng những quan niệm này bổ saung hỗ trợ cho nhau để hoàn thiện hơn về mặt ý nghĩa văn chươngchứ không loại trừ nhau. Cho nên văn chương là lòng thương người nhưng chưa phải là tất cả.
để làm rõ hơn tình cảm nhân ái của văn chương tác giả đưa ra 2 ý:
- Văn chương sẻ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng.
- Văn chương còn sáng tạo ra sự sống.
 Giáo viên giải thích cho học sinh rõ từ “hình dung”: danh từ, hình ảnh, hình bóng. Cuộc sống của con người là muôn hình vạn trạng, nhiệm vụ là phản ánh cuộc sống. Nhờ tác phẩm văn chương ta biết cuộc sống con người trong quá khứ, trong hiện tại và ta như thấy được cả trong tương lai. Qua văn chương ta như thấy được con người đã sung sướng hay khổ đau, đã hạnh phúc hay bất hạnh ra sao, soi mình vào văn chương ta như thấy minhf trong đó, và tác giả như đang nói hộ mình. Văn chương thực hơn cả đời thường. Xuất phát từ văn thơ qua cách lập luận của tác giả ta thấy được khả năng kì diệu của văn chương. Văn chương sáng tạo ra sự sống – văn chương phản ánh thông qua lăng kính chủ quan của tác giả không sao chụp ngoài đời , văn chương dựng ra hình ảnh và đưa ra ý tưởng mà cuộc sống hiện tịa chưa có, chưa đủ để mọi người phấn đấu thực hiện. Vậy vì sao văn chương lại có thể làm được điều đó? Bởi vì văn chương bắt nguồn từ cảm xúc. ở luận điểm 2 này dù không có dẫn chứng nhưng rất chặt chẽ và khắc sâu vấn đề.
Với luận điểm 3 đã khẳng định công dụng của văn chương giúp cho tình cảm gợi lòng vị tha. Luận điểm này tác giả đưa ra 3 dẫn chứng giầu hình ảnh, hình tượng rồi từ đó dùng lí lẽ kết hợp để giải thích vấn đề.
Dẫn chứng 1: ”Một người hằng ngày.......văn chương hay sao?” rất sát thực và kết thúc bằng câu hỏi tu từ để gieo sâu vào lòng người đọc công dụng văn chương.
Dẫn chứng 2: “ Có kẻ nói.......quá đáng” dưới dạng liệt kê và có sức thuyết phục, tác giả mượn lời người đời để giải thích, khẳng định vấn đề.
Dẫn chứng 3: “ Nếu trong pho tượng.......nào!” tác giả đưa ra một lời giả ddinhj rồi bình luận và bày tỏ cảm xúc qua câu cảm.
 Hướng cho học sinh thấy được:
Tư cách lập luận đó, tác giả muóon tả cẩm nhận được sức mạnh của văn chương và cách nhìn của tác giả.”
- Văn chương giúp chúng ta nhìn ra cái đẹp của cuộc sống.
- Làm giàu đời sống tinh thần.
- Khơi dậy cảm xúc.
 tác giả đề cao công dụng của văn chương! Văn chương gây những tình cảm không có, luyện những tình cảm có sâu. đời sống tinh thần của nhân loại nếu không có văn chương sẻ rất nghèo nàn.
 Qua phần tìm hiểu văn bản giúp học sinh học cách lập luận: lí lẻ luận điểm và lấy dẫn chứng của tác giả. Các em hiểu đây là một văn bản nghị luận văn chương, vì nó làm sáng tỏ một vấn đề của văn chương đó là “ý nghĩa văn chương” thật hay và thật ý nghĩa – nhưng dạy như thế nào cho đúng nghị luận mà không khô khan, gây hứng thú với học sinh quả thật khó. đòi hỏi giáo viên phải nghiên cứu, hiểu tháu đáo văn bản đẻ truyền tải học sinh nắm bắt được nội dung mục đích yêu cầu.
 Một số dẫn chứng minh hoạ cuộc đời không thể thiếu văn chương.
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi...”
(Mùa xuân nho nhỏ – Thanh Hải)
chỉ vài ba nét vẻ – Một bức tranh xuân tươi đẹp nhẹ nhàng đầy sức sống được hiện lên qua cảm xúc cảu tác giả thật đáng yêu.
- Văn chương làm cho cuộc đời thêm đẹp, cuộc sống thêm màu sắc, ý vị phong phú đẹp đẽ hơn.
“ Cuộc đời phù phiếm và chật hẹp của cá nhânvì văn chương mà trở nên thâm trầm và rộng rãi đến trăm nghìn lần”.
(Hoài Thanh)
“Tôi yêu sông xanh núi tím, tôi yêu đôi mày ai như ttrăng mới in ngần và tôi cúng xây ước mơ, nhưng yêu nhất là mùa xuân...”
(Truyện Kiều - Nguyễn du)
Quê hương – ai cũng có – và ta càng cảm thấy yêu quê hương tha thiết hơn khi đọc bài “Quê hương” - Đỗ Trung Quân.
“Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
.......................................
sẽ không lớn nỗi thành người”.
 Qua bài ca dao” công cha như núi thái sơn” ta lại càng thêm kính yêu cha mẹ hơn 
Nguồn gốc của văn chương trước hết là tình thương: giáo viên lấy một số dẫn chứng khác ví dụ như Truyện Kiều.
- Chứng kiến cảnh chia tay đẫm nước mắt của Thuý – Thành. Có biết bao bạn nhỏ phải khóc vì thương hai đứa trẻ tội nghiệp phải chia tay. Từ cuộc chia tay không đáng có đó. Ta nhận thấy gia đình quí giá biết nhường nào. đó là lời nhắc nhở tất cả chúng ta phải biết năng niu gìn giữ tổ ấm yêu thương này.( cuộc chia tay với những con búp bê).
- Qua bài ( Cô tô) của Nguyễn Tuân, ta càng yêu thêm và tự hào về vẻ đẹp của đất nước.
- Giáo viên lấy các dẫn chứng ở các bài đã học lớp dưới cho học sinh phân tích và cảm nhận.
Kết quả: - Dạy theo hướng trên đã gây hướng thú hấp dẫn cho học sinh.
 - Dạy xong tôi kiểm tra sự cảm thụ của học sinh. Các em đã tiếp thụ tốt về văn bản. hiểu được một nét phong cách nghị luận độc đáo của Hoài Thanh.
 - Thích thú tiếp nhận theo mạch bài này, các em hiểu rõ ý nghĩa văn chương và yêu thích môn văn học hơn.
c-thay cho lời kết
 Đưa ra định hướng khai thác trên tôi mong tìm được mạch bài thống nhất khi dạy kiểu bài nghị luận văn chương được hay - đúng, chặt chẽ và thuyết phục hơn. rất mong sự chỉ bảo, góp ý của ban giám khảo và bạn bè đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Thị xã ngày 14/412006

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN Ngu van 7 Mot cach tiep can van ban.doc