Đề tài Rèn chữ viết học sinh lớp 1 đầu cấp

Đề tài Rèn chữ viết học sinh lớp 1 đầu cấp

I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

 Người xưa nói: “nét chữ là nết người” hàm ý về hai vấn đề: thứ nhất nét chữ thể hiện tính cách con người, thứ hai thông qua rèn luyện chữ viết mà giáo dục nhân cách con người. Như vậy, phong trào “vở sạch - chữ đẹp” vừa là mục đích, vừa là phương tiện của quá trình giáo dục toàn diện nhân cách học sinh

 

doc 9 trang Người đăng vultt Lượt xem 643Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Rèn chữ viết học sinh lớp 1 đầu cấp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 
	 Người xưa nói: “nét chữ là nết người” hàm ý về hai vấn đề: thứ nhất nét chữ thể hiện tính cách con người, thứ hai thông qua rèn luyện chữ viết mà giáo dục nhân cách con người. Như vậy, phong trào “vở sạch - chữ đẹp” vừa là mục đích, vừa là phương tiện của quá trình giáo dục toàn diện nhân cách học sinh
	“ Người ngay thẳng, chữ thường xiêu vẹo”	, trải qua bao thăng trầm, từ chữ truyền thống, rồi lại chữ cải cách, thực hiện đổi mới giáo dục phổ thông Bộ GD & ĐT đã ban hành mẫu chữ viết theo mẫu chữ truyền thống. Trước thực trạng phụ huynh kêu than chữ học sinh bây giờ sao mà xấu quá, là giáo viên chủ nhiệm lớp 1, bước khởi điểm hướng dẫn nét chữ ban đầu và quyết định bước tiếp theo. Tôi đã chịu khó tích luỹ kinh nghiệm, tận tuỵ bồi dưỡng cho học sinh lòng say mê và tinh thần quyết tâm rèn luyện chữ viết. Bởi nét chữ, nết người, luyện chữ còn luyện cả tính cách cho học trò. Sự kiên trì, nhẫn nại, sự ham mê, rèn rũa cái đẹp. Và cũng là động cơ thúc đẩy học các môn học khác. Có thể nói rằng: Hầu hết những người viết chữ đẹp đều là những người cẩn thận và chăm chút trong công việc. Tôi cũng mong học sinh của mình có được tính cách như thế. Vốn là một cô giáo dạy lớp 1, khối lớp mà việc luyện viết và đọc được đặt lên hàng đầu nên tôi càng có cơ hội để phát huy sở trường của mình. Những học sinh của tôi tương đối đều viết chữ đẹp. 
Với tất cả những ý trên tôi mạnh dạn đúc rút đề tài: “Rèn chữ viết học sinh lớp 1 đầu cấp” để giới thiệu các bạn đồng nghiệp tham khảo.
II/ KHẢO SÁT THỰC TRẠNG:
	Thực trạng địa phương, trường lớp. 
1/ Khó khăn: 
	- Đời sống của gia đình học sinh thuộc xã Phan Rí Thành gặp nhiều khó khăn, xã Phan Rí Thành chưa thoát khỏi xã nghèo.
	- Do vở, bút chất lượng chưa đồng đều, một số cha mẹ học sinh thiếu quan đầu tư chất lượng vở, viết ch học sinh với việc chữ, giữ gìn sách vở, đồ dùng học tập của con em chưa được coi trọng đúng mức (với ý nghĩ: vở, bút nào cũng được miễn có học mà thôi).
	- Việc phối hợp ba môi trường giáo dục còn nhiều hạn chế nhất là giáo dục gia đình.
2/ Thuận lợi: 
	- Cơ sở vật chất hiện có: Về bàn ghế, độ cao phù hợp lứa tuổi học sinh, về bảng đen có kẻ ô li rõ ràng, ánh sáng phòng học đủ tiêu chuẩn.
	- Ban giám hiệu nhà trường quan tâm chỉ đạo phát động phong trào “giữ vở sạch - rèn chữ đẹp” hàng năm. Tạo điều kiện cho các em có năng khiếu viết chữ đẹp tham gia hội thi nâng cao chữ viết của các em.
* Khả năng phổ biến: 
 Với những kinh nghiệm đã được đúc rút từ thực tiễn qua 5 năm lớp 1, bản thân tôi thể nghiệm qua 2-3 năm trong kỹ năng rèn chữ viết và đã đưa những kinh nghiệm này ra thảo luận ở tổ, toàn tổ đã thống nhất đưa các kinh nghiệm nêu trên áp dụng cho toàn khối 1 trong năm học 2005-2006.
3/ Tổng số học sinh: 	35/22 nữ 
	- Trẻ đi học đúng tuổi: 	34 
	- Lưu ban:	0 
	- Số trẻ qua lớp mẫu giáo: 	30
	- Số trẻ thuộc diện hộ nghèo: 	10 
* Thống kê chất lượng đầu năm:
	- Giỏi - khá: 	10 em 
	- Trung bình:	15 em 
	- Yếu: 	10 em 
* Thống kê chất lượng chữ viết đầu năm: 
	- Giỏi - khá: 	10 em 
	- Trung bình:	15 em 
	- Yếu: 	10 em 
III/ NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH: 
1/ Đầu năm: 
	- Khảo sát chất lượng đại trà chữ viết, qua đó phân loại những em chữ viết: tốt, khá, trung bình, yếu.
	- Dựa bốn chất lượng trên, GV có kế hoạch, phương pháp cho phù hợp.
	- Chia lớp thành 4 nhóm, 4 nhóm theo 4 chất lượng tốt, khá, trung bình, yếu.
	- Trong thời gian rèn chữ viết, nhóm yếu hơn có em tiến bộ thì được nâng chữ viết lên bằng cách nhập vào nhóm khá hơn.
	- Khi luyện tập viết chữ, GV cần luôn chú ý uốn nắn để các em cầm bút đúng và ngồi viết đúng tư thế. Bài viết đẹp phải đi kèm với tư thế đúng, rèn cho trẻ viết đẹp mà quên mất việc uốn nắn cách ngồi viết là một thiếu sót lớn của giáo viên.
* Những hình thức luyện tập cơ bản: 
1. Thực hiện các nguyên tắc về tư thế khi ngồi viết:
- Trạng thái tinh thần phải phấn chấn, hứng thú. Không viết khi quá mệt mỏi, buồn ngủ, uể oải, phân tán vì chuyện khác, gò bó, gượng ép, cưỡng bức Tránh nhất tư tưởng viết qua quýt cho xong để còn đi chơi
- Ánh sáng phải đủ “độ” và thuận chiều, chiếu sáng từ bên trái sang không bị sấp bóng.
- Tư thế ngồi viết phải thoải mái, không gò bó (dễ gây tê mỏi). Hai tay phải đặt đúng điểm tựa quy định mới điều khiển cây bút theo sự chỉ huy của não được. Ngồi quá cao, đầu phải cúi gằm xống. Ngồi thấp quá, đầu phải nhìn với lên (điều này phụ thuộc vào bàn ghế phải thích hợp kích cỡ học sinh). Tuyệt đối không quỳ, nằm, ngồi viết tùy tiện. Khoảng cách từ mắt đến vở tầm 25cm->30cm là vừa (hơn một gang tay người lớn), không được nhìn quá gần vở vì thiếu ánh sáng sẽ dẫn đến cận thị.
- Cột sống lưng luôn ở tư thế thẳng đứng, vuông góc với mặt ghế ngồi. Không ngồi vặn vẹo, lâu dần thành có tật dẫn đến lệch cột sống, rất khó chữa sau này.
- Hai chân thoải mái, không để chân co, chân duỗi khiến cột sống phải lệch vẹo và chữ viết sẽ xiên lệch theo.
- Tay trái để xuôi theo chiều ngồi, giữ lấy mép vở cho khỏi xô lệch, đồng thời làm điểm tựa cho trọng lượng nửa người bên trái.
- Tay phải cầm chắc bút bằng 3 ngón tay (cái, trỏ, giữa). Đầu ngón trỏ cách đầu ngòi bút chừng 2,5cm. Mép bàn tay là điểm tựa của cánh tay phải khi đặt xuống bàn viết. Lúc viết, điều khiển cây bút bằng các cơ cổ tay và các ngón tay.
- Không để ngửa bàn tay quá, tạo nên trọng lượngt tì xuống lưng của hai ngón tay út và áp út (ngón đeo nhẫn). Ngược lại, không úp quá nghiêng bàn tay về bên trái (nhìn từ trên xuống thấy cả 4 ngón: trỏ, giữa, áp út, út).
	Các tư thế tay cầm bút không đúng sẽ dẫn đến các cố tật sau này rất khó sửa chữa như: căng cứng, mỏi cơ gân bàn tay, viết chóng mỏi tay, ra nhiều mồ hôi tay, không thể viết lâu, viết nhanh được.
2. Chuẩn bị trước khi viết: 
	Nếu viết nét chì, cần chuẩn bị chu đáo cho đầu nét chì hơi nhọn đúng tầm. Nếu quá nhọn dẫn đến nét chữ quá mảnh, đôi khi còn chọc thủng cả giấy. Ngược lại, đầu nét chì quá “tù”, nét chữ sẽ quá to, chữ viết ra xấu. Nên dán một mảnh giấy ráp “số 0” vào ngay hộp bút để tiện mài đầu bút chì cho vừa tầm độ nhọn, khỏi mất công gọt luôn (vừa mất thời gian, vừa chóng mòn hết bút chì).
3. Sử dụng bút trong khi viết: 
- Cầm bút xuôi theo chiều ngồi. Góc độ bút đặt so với mặt giấy khoảng 450. Tuyệt đối không cầm bút dựng đứng 900 như cách cầm bút lông viết chữ nho.
- Đưa bút từ trái sang phải, từ trên xuống dưới. Các nét đưa lên hoặc đưa sang ngang phải thật nhẹ tay, không ấn mạnh đầu bút vào mặt giấy.
4. Sau khi viết: 
	Cần nhận xét “nét nào được, nét nào hỏng?” tìm nguyên nhân vì sao hỏng: tại tư thế cầm bút ngồi viết không đúng quy định, tay đặt bút không có điểm tựa, tại chỗ ngồi quá chật chội gò bó, vì chưa chuyển dịch bút đúng tầm tay đưa bút, do vướng vấp cạnh bàn, mặt giấy không nhẵn, mực xuống không đều, tay đưa bút chưa thuần thục nhuần nhuyễn hoặc đang viết có người gọi hỏi hoặc phân tán vì chuyện khác hấp dẫn hơn gây nên hỏng chữ Tóm lại, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến chữ xấu trong khi viết.
	Sau khi phát hiện ra nguyên nhân chỗ viết hỏng, cần giúp trẻ rút kinh nghiệm, tránh vấp phải sai sót tương tự ở lần sau.
	- Khi viết thấy mỏi tay, mồ hôi tay ra nhiều hoặc hoa mắt, nhức đầu, có nghĩa là đã ngồi quá lâu, phải nghỉ giải lao, chuyển sang các hoạt động cơ bắp như: vươn vai, hít thở mạnh, tập thể dục, đá bóng, nhảy dây Sau 15 đến 20 phút trở lên ngồi viết sẽ có hiệu quả hơn.
2/ Biện pháp tiến hành (biện pháp trọng tâm):
	- Chia chữ ra từng loại và rèn luyện dứt điểm.
	+ Nếu cùng một lúc đòi hỏi các em viết đúng và đẹp ngay là điều không thực tế, khó có thể thực hiện được. Do vậy, tôi định ra mỗi tuần rèn một, hai (ở KII) loại chữ nhất định (1 tuần 2 tiết tập viết). Rèn viết đúng loại chữ này mới chuyển sang rèn loại chữ khác. Tôi đặt ra một kế hoạch rèn chữ hàng tuần, hàng tháng một cách cụ thể. Cứ như thế loại này viết đẹp mới chuyển sang rèn loại chữ khác.
	Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo nét và mối quan hệ về cách viết các chữ cái, tôi chia ra các nhóm như sau: 
a/ Chữ thường (3 nhóm) 
* Nhóm 1: n, m, i, u, ư, r, t (8 chữ cái) 
- Trọng tâm rèn luyện là nét móc: móc ngược, móc xuôi và móc 2 đầu.
- Từ các nét cơ bản trên, nếu nét đẹp 8 chữ cái ở nhóm 1, ta dễ dàng viết được các chữ cái khác như h, b, p, y
* Nhóm 2: l, b, h, k, p, y (6 chữ cái) 
- Năm chữ cái: l, b, h, k, y đều giống nhau ở một nét cơ bản là nét khuyết.
- Viết được các chữ cái ở nhóm 1, nhóm 2, học sinh viết các chữ cái khác có phần thuận lợi hơn.
	Đối với lớp 1 và những học sinh yếu ở lớp 2 tôi chú ý rèn viết bắt đầu từ nét sổ dọc (|), vì ngày xưa các thầy thường nói “ngang bằng, sổ thẳng”. Học sinh viết được nét sổ ngay ngắn mới tiến hành viết nét khuyết.
* Nhóm 3: o, ô, ơ, a, ă, â, d, đ, q, g, c, x, e, ê, s (15 chữ cái) 
- Loại chữ này nhiều người nghĩ rằng đơn giản nhưng thực tế hầu hết học sinh viết sai từ chữ o, tôi đã hỏi một số giáo viên dạy lâu năm: chữ o viết thế nào thì đúng? Đặt bút từ đâu? Chiều ngang chiếm tỷ lệ bao nhiêu so với chiều cao? Rất ít giáo viên trả lời đúng ý.
- Khi dạy chữ O, tôi kẻ 1 ô vuông trên bảng, chia ô vuông thành 3 phần bằng nhau, đánh dấu 4 điểm giữa các cạnh của hình chữ nhật, dùng phấn màu chấm chấm () thành chữ O, sau đó tô lên các dấu chấm chấm. Giáo viên vừa viết vừa hướng dẫn học sinh quan sát.
- Viết được chữ O, học sinh dễ dàng viết đúng các chữ khác trong nhóm 3.
- Tôi lưu ý học sinh khi viết chữ cái O phải có dấu nhấn với 2 tác dụng: ghi dấu nét xuất phát, là điểm “thêm sâu” để thành chữ ơ, điểm dừng để nối chữ khi viết nhanh.
b) Chữ hoa: 
- Căn cứ vào sự cấu tạo, nét giống nhau của các chữ, tôi đã chia các chữ hoa thành 8 nhóm nhỏ và tự làm bộ chữ mẫu cắt ghép để minh họa cho bài giảng: (1) U, Ư, V; (2) L, E; (3) N, M; (4) X, Y; (5) T, H, I; (6) P, R, K, B, D, Đ; (7) C, G; (8) O, Q, S.
- Loại chữ này có nhiều thuận lợi đối với việc dạy viết chữ cho học sinh tiểu học.
	+ Đơn giản, dễ viết (một số chữ khá đẹp).
	+ Cùng nằm trong 1 khung chữ giống nhau, chiều cao các chữ luôn có tỷ lệ gấp đôi bề ngang (đối với học sinh lớp 1, tuy yêu cầu viết hoa là kiến thức hơi cao, nhưng trong bài viết chính tả chữ đầu dòng viết hoa, do đó các em phải rèn viết và cũng cung cấp cho các em kiến thức cơ bản để lên lớp trên).
* Cần lưu ý các hình thức luyện tập cơ bản sau: 
	- Tập viết chữ (chữ cái, chữ số, từ ngữ, câu) trên bảng lớp: Hình thức tập viết chữ: trên bảng đen có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách viết chữ và bước đầu đánh giá kỹ năng viết chữ của học sinh. Hình thức này thường dùng khi kiểm tra bài cũ hoặc sau bước giải thích cách viết chữ , bước luyện tập viết chữ ở lớp. Qua đó, GV phát hiện chỗ sai của học sinh (về hình dáng, kích thước, thứ tự viết, các nét) để uốn nắn chung cho cả lớp hoặc đánh giá cho điểm.
	- Tập viết chữ vào bảng con cho học sinh: HS luyện tập viết chữ bằng phấn trên bảng con trước khi tập viết vào vở. HS có thể tập viết chữ cái, viết các vần, các chữ hoặc từ có 2 hoặc 3 chữ vào bảng con. Khi sử dụng bảng con, GV cần hướng dẫn các em cả cách lau bảng từ trên xuống, cách sử dụng và bảo quản phấn, cách lau tay khi viết để giữ vệ sinh (phải có giẻ ướt để lau bảng). Viết vào bảng xong, HS cần giơ lên để GV kiểm tra. Cần chú ý giữ trật tự trong lớp khi dùng hình thức luyện tập này và nên tận dụng cả hai mặt bảng khi viết.
	Đối với học sinh lớp 1, cần phải có mẫu trình bày bảng con từng nội dung để HS nhìn vào đó mà viết theo.
	- Luyện tập viết trong vở tập viết: Muốn cho HS sử dụng có hiệu quả vở tập viết, GV cần hướng dẫn tỉ mĩ nội dung và yêu cầu về kỹ năng viết của từng bài viết (chữ mẫu, các dấu chỉ khoảng cách chữ, dấu chỉ vị trí đặt bút, thứ tự viết nét) Giúp các em viết đủ, viết đúng số dòng đầu tiên ở mỗi phần bài viết. Việc đảm bảo tốt các công việc trên sẽ giúp các em viết tốt hơn ở những dòng sau.
	(Ngoài tập viết vào vở tập viết buổi chính (buổi sáng), tôi còn rèn các em viết vào vở trắng (vở 1) buổi chiều, vì trường học 2 buổi/ ngày).
	- Luyện tập viết chữ khi học các môn học khác: Cần tận dụng việc viết các bài học, bài làm ở các môn học khác để HS tập viết. Đối với lớp 1 nói riêng, bậc tiểu học nói chung, sự nghiêm khắc của GV về chất lượng chữ viết ở tất cả các môn học là cần thiết, có như thế, việc luyện tập viết chữ mới được củng cố đồng bộ thường xuyên. Việc làm này đòi hỏi ở người GV ngoài những hiểu biết về chuyên môn, còn cần có sự kiên trì, cẩn thận và lòng yêu nghề, mến trẻ.
	* Một số quy định về rèn luyện chữ viết và tiêu chuẩn đánh giá, xếp loại “Giữ vở sạch - Rèn chữ đẹp” đối với học sinh tiểu học:
	- Đặt đúng vị trí dấu con chữ, dấu thanh, dấu câu và các kí hiệu đã học.
	- Chữ viết rõ nét, đều đặn.
	- Viết thẳng hàng, đúng dòng kẻ.
	- Biết nối liền các con chữ trong 1 chữ (ghi tiếng) phân đúng khoảng cách giữa các chữ.
	- Đảm bảo tốc độ viết theo yêu cầu quy định.
	- Biết trình bày bài viết theo đặc điểm riêng của từng thể loại.
	(Khối 1, quy định đánh giá theo từng giai đoạn của năm học).
* Ví dụ minh họa: Tô chữ e, b, bé 
A/ Bài cũ: 
	- GV cho HS nhắc lại 12 nét cơ bản: 
	- HS viết lại các nét cơ bản trên bảng con.
	=> Giáo viên rút ra nét có liên quan là 2 nét cơ bản của bài viết hôm nay.
B/ Bài mới: 
1. Giới thiệu bài viết.
a. Giới thiệu chữ e.
- Học sinh quan sát chữ mẫu.
- Hướng dẫn học sinh phân tích chữ e: gồm 1 nét cơ bản là nét thắt trái.
- Giáo viên viết mẫu trên bảng: viết nét thắt trái, chiều cao 2 ô li vở.
- Hướng dẫn học sinh viết trên không -> viết vào bảng con.
- Giáo viên lấy bảng học sinh viết đúng, đẹp nhận xét.
- Học sinh viết lại lần 2 đúng, đẹp hơn.
b. Giới thiệu chữ b (tương tự như trên) 
- Học sinh phân tích chữ b: gồm 2 nét cơ bản là nét khuyết trên và nét thắt phải.
- Giáo viên viết mẫu: viết nét khuyết trên (5 ô li), nối liền với nét thắt phải (chú ý giữa 2 nét nối liền tạo hình cong tròn bầu dục).
- Hướng dẫn học sinh viết trên không -> viết vào bảng con.
- Giáo viên lấy bảng học sinh viết đúng, đẹp nhận xét.
- Học sinh viết lại lần 2.
c. Giới thiệu chữ : bé 
- Học sinh quan sát chữ mẫu: bé 
- Học sinh phân tích chữ: bé gồm chữ b trước, chữ e sau dấu sắc trên chữ e.
- Giáo viên viết mẫu: nối nét giữa các con chữ.
- Học sinh viết vào bảng con - sửa sai.
2. Hướng dẫn học sinh viết bài:
- Hướng dẫn học sinh quan sát bài viết mẫu (chú ý khoảng cách).
- Học sinh tô chữ vào vở Tiếng việt -> Giáo viên theo dõi giúp đỡ học sinh yếu.
- Thu bài (10 em) chấm đánh giá bài viết tại lớp.
- Nếu sai ở lỗi nào phổ biến nhiều thì cho HS viết lại trên bảng con.
3. Củng cố: Học sinh nhắc lại cấu tạo chữ: e, b, bé.
4. Nhận xét: 
	Dặn dò học sinh chuẩn bị vở 1 để viết vào vở (buổi chiều) 
	* Buổi chiều GV rèn học sinh viết vào vở trắng.
	Ở đây chữ e: Tôi đưa vào nhóm 3
	 b: Tôi đưa vào nhóm 2
	Mục đích tôi đưa vào các nhóm chữ như thế là để rèn chữ cho học sinh dễ dàng hơn và dễ nhớ.
IV/ HIỆU QUẢ VÀ KHẢ NĂNG PHỔ BIẾN: 
	- Tốt: 	20 em 
	- Khá: 	8 em 
	- Trung bình: 	7 em 
	- Yếu: 	0 em 
	- Học sinh thi “Giữ vở sạch - Rèn chữ đẹp” giải 2 cấp Tỉnh.
	- GV xếp loại rèn chữ viết HS lớp: Tốt
* Bài học kinh nghiệm:
	- GV phải coi việc trình bày trên bảng là trang viết mẫu mực của mình cho học sinh noi theo. Do vậy, chữ viết cần đúng, rõ đẹp và ngay ngắn. Chấm chữa bài thường xuyên, dành thời gian cho việc nghiên cứu chữ viết, phương pháp giảng dạy tốt hơn. Làm tốt những điều trên ở mỗi tiết, mỗi ngày kết hợp với sự uốn nắn thường xuyên của thầy cô chính là con đường ngắn nhất để rèn luyện “vở sạch - chữ đẹp” cho học sinh.
	- GV luôn biểu dương những em có tiến bộ. Kết thúc mỗi năm học, GV nên giữ lại những bộ “vở sạch, viết chữ đẹp” để lưu tại tủ lớp hoặc tại phòng truyền thống nhà trường dùng làm “chuẩn” kích thích phong trào “vở sạch - chữ đẹp” cho năm học tiếp theo.
* Khả năng phổ biến: 
	- GV làm công tác rèn chữ là công việc hết sức vất vả (đặc biệt là lớp vỡ lòng, đầu cấp), phải có phương pháp giảng dạy nhiệt tình, dễ hiểu và nhẹ nhàng đối với các em, sự ham mê, tận tình đầy tâm huyết. Với mỗi ngày các em tiến bộ là niềm vui của GV, với ý nghĩa khẩu hiệu tự hào là: “mỗi chữ viết là 1 bông hoa đẹp, mỗi trang vở là một vườn hoa tươi”.
	Và bởi chữ viết cũng là sự biểu hiện của “nết người”. Điều này càng có ý nghĩa sâu sắc và tầm quan trọng đối với bậc tiểu học, đối với cả thầy cô giáo. Những người trực tiếp hình thành nên những thói quen và kỹ năng cho HS. Việc viết chữ đúng, đẹp, giữ vở cẩn thận, sạch sẽ vừa tạo cho học sinh thói quen tập trung nghe thầy, cô giảng bài, vừa giúp các em dễ học, vì chữ viết của chính các em sẽ giúp các em tái hiện lại bài học thuận lợi song nó còn là một hoạt động nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, cũng là biểu hiện thêm, yêu thêm chữ quốc ngữ của dân tộc đối với các em. Đó là một yêu cầu không thể coi thường của ngành giáo dục.
V/ ĐỀ XUẤT: 
	- Nhà trường: cần quan tâm hơn nữa trong các hội thi “vở sạch - chữ đẹp” ở trường cũng như ở huyện, tỉnh. Có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao chữ viết cho các em có năng khiếu (thực hiện 1 buổi/tuần).
	- Đoàn thể, hội cha mẹ học sinh phải phối hợp, cộng tác với nhà trường để GV làm tốt công tác rèn chữ viết cho con em./.

Tài liệu đính kèm:

  • docsang kien kinh nghiem(6).doc