Bác Hồ đã viết :
“ Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Vậy “Làm sao để dân ta biết sử ta?” đó là nội dung của hội thảo do Trường ĐH KHXH & NV TP HCM, Sở GDĐT TP HCM .tổ chức.
Mở đầu hội thảo, PGS.TS Ngô Văn Lệ, hiệu trưởng Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TPHCM, khẳng định: "Lịch sử hun đúc cho chúng ta lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Học lịch sử VN thì chúng ta mới hiểu được đạo lý của con người VN, mới yêu quý và trân trọng những thành quả của cha ông ta trước kia, mới hiểu được thành tựu sáng tạo, những phẩm giá tinh thần truyền thống. Lịch sử dân tộc không chỉ trang bị vốn kiến thức cơ bản cần thiết cho thế hệ trẻ mà còn góp phần hoàn thiện nhân cách, bản lĩnh con người Việt Nam".
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ Bác Hồ đã viết : “ Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” Vậy “Làm sao để dân ta biết sử ta?” đó là nội dung của hội thảo do Trường ĐH KHXH & NV TP HCM, Sở GDĐT TP HCM.tổ chức. Mở đầu hội thảo, PGS.TS Ngô Văn Lệ, hiệu trưởng Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TPHCM, khẳng định: "Lịch sử hun đúc cho chúng ta lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Học lịch sử VN thì chúng ta mới hiểu được đạo lý của con người VN, mới yêu quý và trân trọng những thành quả của cha ông ta trước kia, mới hiểu được thành tựu sáng tạo, những phẩm giá tinh thần truyền thống. Lịch sử dân tộc không chỉ trang bị vốn kiến thức cơ bản cần thiết cho thế hệ trẻ mà còn góp phần hoàn thiện nhân cách, bản lĩnh con người Việt Nam". Rồi ông đặt câu hỏi: "Lịch sử có vai trò to lớn như vậy nhưng hiện nay trong xã hội và nhà trường, môn Lịch sử bị xem là môn phụ. HS ít muốn học, nếu có học cũng qua loa, chiếu lệ. Kết quả chấm thi đại học trong 2 năm gần đây khiến nhiều người không khỏi giật mình vì "bội thực" điểm 0. Nhận định trên cho chúng ta biết được về thực trạng học lịch sử hiện nay ở trưòng phổ thông rất đáng báo động, đa số các em đều không nhớ đến những kiến thức lịch sử vì cho rằng đây chỉ là môn phụ, nên không tập trung học, lơ là, chưa xem trọng quan tâm, yêu thích. Là một giáo viên Lịch sử, chúng ta không khỏi đau lòng khi biết kết quả của một cuộc thăm dò, không ít HS rất khó khăn trong việc nhớ LS dân tộc nhưng lại rất nhạy bén trong việc nhớ tiểu sử, tính cách, thành tích của một diễn viên, ca sĩmà các em yêu thích. Vì vậy hầu hết các em học bằng cách đối phó, học thuộc lòng, học vẹt nên nhanh nhớ rồi cũng chóng quên, không tích cực chủ động trong tiếp thu bài, rất thụ động nên bao giờ tiết học cũng nặng nề, tẻ nhạt dẫn đến chất lượng bộ môn không cao là điều tất nhiên. Vai trò quan trọng của bộ môn chưa được nhìn nhận đúng đắn, Đây là vấn đề mà tất cả GV đều quan tâm, là yêu cầu cấp bách trong giảng dạy và học tập lịch sử hiện nay. Qua quá trình công tác của bản thân, tôi ý thức rõ vị trí bộ môn mình phụ trách nên tôi tự đặt ra yêu cầu cho mình là phải làm sao để các em học lịch sử luôn tập trung, với một sự thích thú, dễ hiểu bài, nắm được điểm cốt lõi, có khả năng phân tích tư duy sự kiện, dễ thuộc bài, và có thể thuộc ngay tại lớp. Đa số các em đã phải học rất nhiều môn, có những môn khô khan nặng nề, thì môn lịch sử sẽ giảm bớt phần nào căng thẳng cho các em. Tôi không ép buộc, không đốc thúc học sinh phải học môn của mình, nhưng tôi nhận thấy nếu GV tạo được sự thú vị trong mỗi tiết học, giảng dạy với tất cả niềm say mê thì các em sẽ có thái độ tích cực hơn. Muốn làm được điều này đòi hỏi phải có nhiều biện pháp nhưng quan trọng hơn hết là chúng ta phải đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của HS. Làm thế nào để phát huy tính tích cực chủ động, nâng cao hiệu quả bài học LS đó là một trong những vấn đề đòi hỏi chúng ta cần phải thực hiện. Từ đó tôi chọn đề tài là “Sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử lớp 7”. Vấn đề này cũng khiến cho nhiều GV còn lúng túng trong việc thực hiện. Có người còn ngại sử dụng kênh hình trong SGK vì cho nó mất thời gian, có người coi kênh hình chỉ là để minh họa, người lại quá xem trọng kênh hình mà xem nhẹ nội dung kiến thức Chính vì vậy mà để phát huy tính tích cực, chủ động trong việc tiếp thu kiến thức lịch sử của học sinh, phát huy tính tích cực học tập của học sinh thì tôi nhận thấy kênh hình trong sách giáo khoa có một ý nghĩa rất quan trọng trong giảng dạy lịch sử. Kênh hình sẽ giúp cho học sinh có được những biểu tượng lịch sử, qua đó hình thành các khái niệm lịch sử trên cơ sở trực tiếp quan sát, khắc phục tình trạng, hiện đại hoá lịch sử của học sinh. Qua hệ thống kênh hình sẽ giúp cho học sinh hiểu sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử, hiểu sâu kiến thức lịch sử. B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I/ Quan niệm về quá trình dạy học Theo quan niệm hiện nay, quá trình dạy học là một quá trình tương tác ( hợp tác) giữa thầy và trò trong đó thầy chủ đạo nhờ các hoạt động tổ chức, lãnh đạo, điều chỉnh hoạt động nhận thức của học sinh, còn trò tự giác, tích cực, chủ động thông qua việc tổ chức , tự điều chỉnh hoạt động nhận thức của bản thân nhằm đạt tới mục đích dạy học. - Hoạt động học tập của học sinh được tích cực hoá trên cơ sở nội dung dạy học ngày càng hiện đại hoá. - Thực tiễn quá trình dạy học đang tồn tại một mẫu khá phổ biến, một bên là nội dung dạy học không ngừng đổi mới theo hướng hiện đại hoá, nội dung thì quá tải- mà thời gian học tập thì quá hạn, phương pháp, phương tiện dạy học lại lạc hậu, lỗi thời... - Trong quá trình dạy học hiện nay, học sinh có vốn sống và năng lực nhận thức phát triển cao hơn so với trẻ cùng độ tuổi. - Do cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay, được sống trong môi trường tri thức ngày càng phong phú học sinh thường xuyên được tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin rất đa dạng. - So với trẻ cùng độ tuổi ở các thế hệ trước, học sinh ngày nay có năng lực nhận thức và vốn sống phát triển hơn, thông minh hơn, năng động hơn...... Vì vậy hoạt động dạy học phải có tác dụng thúc đẩy sự phát triển năng lực và phẩm chất trí tuệ, tạo nên sự biến đổi về chất trong hoạt động nhận thức.Trong quá trình học tập, học sinh có xu hướng vượt ra khỏi nội dung tri thức, kỹ năng do chương trình đã qui định. Nhìn chung đa số học sinh không thoả mãn với nội dung những gì các em được học trong chương trình, các em luôn nhạy cảm với cái mới , muốn học thêm, tự tìm tòi, phát hiện cái mới muốn liên hệ lí luận với thực tiễn, muốn phát hiện và giải quyết vấn đề bằng nhiều con đường, cách thức, phương án khác nhau, muốn được học thêm những môn tự chọn, tuỳ chọn... Quá trình dạy học hiện nay được tiến hành trong điều kiện cơ sở vật chất và các phương tiện kỹ thuật dạy học ngày càng hiện đại. Cùng với sự đổi mới nội dung và PPDH nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh, các nhà trường hiện nay cũng đã được trang bị khá đầy đủ các phương tiện dạy học, nhờ vậy mà gây hứng thú cho học tập cho học sinh, giúp họ lĩnh hội nhanh dễ dàng hơn những tri thức và vận dung linh hoạt sáng tạo tri thức đó vào thực tiễn cuộc sống. II/ Vị trí, ý nghĩa của kênh hình SGK trong dạy học lịch sử Xuất phát từ thực tế đổi mới giáo dục hiện nay, SGK lịch sử THCS được biên soạn có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp. SGK lịch sử không chỉ là tài liệu giảng dạy của giáo viên mà còn là tài liệu học tập ở lớp và ở nhà của học sinh . Đó là, học sinh không phải học thuộc lòng SGK mà cần tìm tòi nghiên cứu những sự kiện có trong SGK dưới sự tổ chức, giúp đỡ, hướng dẫn của giáo viên. Từ đó, các em hình thành cho mình những hiểu biết mới về lịch sử . Do đó những thông tin trong SGK một mặt được trình bày dưới dạng nêu vấn đề để học sinh suy nghĩ, mặt khác kèm theo những thông tin là những câu hỏi, bài tập yêu cầu học sinh thực hiện các hoạt động học tập khác nhau trong đó đặc biệt là sự giảm tải 25% số lượng kênh chữ tăng đáng kể số lượng kênh hình. Kênh hình trong SGK không chỉ minh hoạ, làm cơ sở cho việc tạo biểu tượng lịch sử mà còn là một nguồn cung cấp kiến thức cho học sinh. Bên cạnh đó, một số bài viết trong SGK còn có nhiều nội dung để ngỏ, chưa viết hết, yêu cầu học sinh thông qua làm việc với tranh ảnh, sơ đồ, bản đồ. sẽ tìm tòi, khám phá những kiến thức cần thiết liên quan đến nội dung bài học mà SGK muốn chuyển tải đến học sinh. Kênh hình trong SGK lịch sử gồm nhiều loại : bản đồ, lược đồ, sơ đồ, hình vẽ, tranh ảnh lịch sử. Mỗi loại có một phương pháp sử dụng riêng. Song tựu trung lại, có thể sử dụng trong bài kiến thức mới, củng cố kiến thức đã học, ra bài tập về nhà và trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh. Riêng đối với hình vẽ, tranh ảnh lịch sử lại có hai dạng: dùng để minh hoạ cho kênh chữ hoặc với tư cách là nguồn cung cấp thông tin, kiến thức cho người học. Do đặc điểm của học tập lịch sử là không trực tiếp quan sát các sự kiện nên vì vậy đồ dùng trực quan nói chung và kênh hình trong sách giáo khoa nói riêng có vai trò ý nghĩa rất quan trọng. Trong dạy học lịch sử, phương pháp sử dụng kênh hình góp phần quan trọng tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hoá các sự kiện và khắc phục được tình trạng” hiện đại hoá” lịch sử của học sinh . Kênh hình là chỗ dựa để hiểu sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử, hình thành khái niệm lịch sử, nắm vững của sự phát triển của xã hội . Kênh hình trong SGK còn có vai tro to lớn trong việc giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh chúng ta thu nhận được bằng trực quan. Cùng với góp phần tạo biểu tượng và hình thành khái niệm, kênh hình còn góp phần vào việc phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy ngôn ngữ của học sinh. Nhìn vào kênh hình học sinh sẽ hình dung ra được quá khứ lịch sử được phản ánh, minh hoạ như thế nào . Học sinh suy nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói chính xác có hình ảnh rõ ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã qua. Kênh hình còn góp phần to lớn trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ trong học sinh. Với tất cả ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển nêu trên, kênh hình góp phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học lịch sử gây hứng thú học tập cho học sinh, nó là chiếc cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Do vậy khi sử dụng kênh hình trong SGK lịch sử đòi hỏi giáo viên khi sử dụng phải linh hoạt, sáng tạo. Vì vậy giáo viên phải chuẩn bị chu đáo và nhất là phải có phương pháp phù hợp với từng loại kênh hình sao cho phù hợp với từng kiểu bài khi lên lớp . III/ Các loại kênh hình trong SGK Lịch sử 7 Kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử lớp 7 gồm các loại sau: 1.Bản đồ, lược đồ lịch sử Bản đồ lược đồ lịch sử nhằm xác định địa điểm của sự kiện trong thời gian và không gian xác định.. Đồng thời bản đồ lược đồ còn giúp học sinh suy nghĩ và giải thích các hiện tượng lịch sử về mối quan hệ nhân quả, về tính quy luật và trình tự phát triển của quá trình lịch sử, giúp các em củng cố ghi nhớ những kiến thức đã học. Ví dụ: * Bài 11: Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống (1075- 1077) + Bản đồ Đại Việt thời Lý- Trần. + Lược đồ trận chiến tại phòng tuyến Như Nguyệt. * Bài 19: Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418- 1427) + Lược đồ trận Tốt Động- Chúc Động, trận Chi Lăng- Xương Giang. 2. Sơ đồ lịch sử Sơ đồ nhằm cụ thể hoá nội dung, sự kiện bằng những hình học đơn giản, diễn tả tổ chức một cơ cấu xã hội một chế độ chính trị, mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử. Ví dụ: * Bài 12 : Đời sống kinh tế, văn hóa + Sơ đồ về cơ cấu các tầng ... giảng chưa cao. Nhiều giáo viên nhận thức đầy đủ giá trị ý nghĩa của kênh hình nhưng lại ngại sử dụng, sợ mất thời gian hoặc sử dụng mang tính hình thức, minh họa cho bài giảng. VI/ Một số ví dụ minh họa 1/ Hình 1: Lâu đài và thành quách của lãnh chúa (SGK LS 7 trang 4) Sau khi cho học sinh quan sát ảnh, giáo viên sẽ hướng cho các em vừa quan sát toàn bộ bức ảnh và sau đó gợi ý một số câu hỏi để giúp các em nhận thấy được cuộc sống xa hoa, hào nhoáng của các lãnh chúa phong kiến sống sung sướng trong các lãnh địa của mình. Với những câu hỏi sau: + Quy mô của lãnh địa phong kiến như thế nào? Theo em, những ai được sống trong các lãnh địa này? + Lãnh địa được xây dựng ở địa hình như thế nào? Những bức tường thành và tháp canh được xây dựng để làm gì? Sau khi hướng dẫn học sinh tập trung chú ý, vào bức ảnh, giáo viên có thể tiến hành miêu tả theo nội dung sau: Sau thế kỷ thứ V, khi chế độ phong kiến ở Tây Âu hình thành và phát triển thì những lâu đài như thế đã xuất hiện ngày càng nhiều. Mỗi lãnh chúa có một hoặc nhiều lãnh địa để ở, tập trung rải rác ở mỗi nơi . Lãnh địa là khu vực đất đai khá rộng, trong đó có cả ruộng đất trồng trọt, đồng cỏ, rừng núi, ao hồ, sông, đầm lầy.Bên trong lãnh địa có lâu đài của quý tộc, có nhà thờ và thôn xóm của dân- những ngôi nhà tạm bợ, lụp xụp, liêu xiêu. Lâu đài thường nằm ở trung tâm lãnh địa, được xây dựng trên mỏm đá cao, trông xa như “ tổ chim diều hâu trên đỉnh núi” . Tất cả các lâu đài có hào sâu và nhiều lớp thành đá dày, cao bao bọc. Muốn vào lâu đài phải qua cầu bằng gỗ trên treo dây xích gang nặng trịch, bắc qua hào sâu, vì vậy nên người ta gọi đó là “ pháo đài bất khả xâm phạm “. Trong lâu đài có phòng ở của lãnh chúa và gia đình, phòng tiếp khách và phòng ở của người tuỳ tùng. Lãnh chúa được coi là những ông vua con, không bao giờ phải lao động. Công việc chính của họ là luyện tập cung tên, luyện kiếm, cưỡi ngựa đi săn và tổ chức yến tiệc thâu đêm, nói chung là họ sống rất xa hoa. Sau khi miêu tả xong GV đặt câu hỏi: em có nhận xét gì về đời sống của lãnh chúa và nông nô trong lãnh địa? Từ đó học sinh có đựoc biểu tượng cụ thể sinh động về hai bức tranh sinh động đối lập của hai giai cấp trong xã hội phong kiến Châu Âu . Từ đó hình thành hai khái niệm lãnh chúa phong kiến và lãnh địa phong kiến . 2/ Hình 5: Những cuộc phát kiến địa lí (SGK LS 7 trang 7) Luợc đồ này thể hiện những cuộc phát kiến địa lí của những nhà thám hiểm nổi tiếng Châu Âu cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI. Trước tiên GV yêu cầu học sinh quan sát lược đồ giúp học sinh phân biệt được những loại mũi tên chỉ từng cuộc hành trình của các nhà thám hiểm, điểm xuất phát đầu tiên của từng cuộc thám hiểm, những điểm dừng chân trong cuộc hành trình. Sau đó GV vừa chỉ lược đồ vừa giới thiệu và mô tả các cuộc phát kiến địa lí, và kèm theo một số câu hỏi phụ trong quá trình chỉ lược đồ để lôi cuốn học sinh chăm chú lắng nghe và lĩnh hội kiến thức. Giáo viên miêu tả lược đồ theo nội dung sau: Nhìn vào lược đồ, các cuộc phát kiến địa lí đều xuất phát từ hai quốc gia : Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha vì hai quốc gia này đều có những hạm thuyền vào loại mạnh nhất Châu Âu lúc bấy giờ và có nhiều thuỷ thủ gan dạ, thông minh. Từ đầu thế kỷ XV Ngưòi Bồ Đào Nha đã đem hết sức lực ra khám phá vùng biển ven Châu Phi. 8/1486 Điaxơ đã tiến hành thám hiểm vùng biển nam Châu Phi, nhưng bị bão thổi bật xuống phía nam Châu Phi nhờ vậy ông đã phát hiện ra mũi Hảo Vọng. 7/1497 khi tròn 28 tuổi Vaxcô đơ Gama đã tổ chức một đoàn thám hiểm gồm 4 tàu Caraven và 160 thuỷ thủ đã đi vòng quanh Châu Phi đến Ca li cút trên bờ biển Tây Nam Ấn Độ. Magienlan là nhà hàng hải Bồ Đào Nha, nhưng lại phục vụ trong triều đình Tây Ban Nha . Được sự giúp đỡ của vua Tây Ban Nha , ông đã tổ chức một đoàn thám hiểm đi vòng quanh trái đất, đoàn gồm 5 tàu Caraven và 265 thuỷ thủ. Ngày 20/9/1519 đoàn bắt đầu cuộc hành trình mạo hiểm từ cảng Xanlucác vượt Đại Tây Dương đi về phía Tây Nam. Đoàn đã vượt qua xích đạo. 10/1519 tới bờ biển Braxin rồi men theo bờ biển phía đông Nam Mĩ tới vịnh Xantaluxia ( nay là thủ đô Riôđê Gianêro của Braxin ) . Do cuộc hành trình quá dài , lại thiếu lương thực, một số thuỷ thủ nổi loạn đòi quay về nhưng ông vẫn cương quyết cuộc hành trình, vượt qua eo biển giữa cực nam châu Mĩ và đảo Đất lửa ( sau này được mang tên Magienlan ) , đoàn thám hiểm tới một đại dương mới , thấy gió lặng, biển yên khác hẳn bão tố liên miên của vùng biển Nam Mĩ, nên Magienlan đặt tên cho nơi này là biển Thái Bình Dương. 6/3/1521 đoàn thám hiểm đến đảo Guam 27/4/1521 trong một cuộc đụng độ với thổ dân vùng quần đảo Philíppin, Magienlan cùng 21 thuỷ thủ đã hy sinh. HoanCơ Encanô lên thay Magienlan chỉ huy đoàn thám hiểm, chỉ còn 2 tàu với 113 thuỷ thủ. 1522 đoàn thám hiểm tiến về phía nam và tới Brunây ngày nay, vòng qua nam Inđônêxia , vào Ấn Độ Dương, vượt qua mũi Hảo Vọng men theo biển phía tây Châu Phi. 8/9/1522 đoàn thám hiểm về tới cảng Xanlucác và chỉ còn 18 thuỷ thủ với một tàu chở đầy hương liệu của phương đông quý giá. Như vậy cuộc hành trình vòng quanh Trái Đất lần đầu tiên được hoàn thành đã làm rạng rỡ tên tuổi nhà thám hiểm Magienlan và ông đã chứng minh được quả đất là hình tròn. Magienlan đã tặng cho nhân loại sự khám phá mới và chiến công của ông vượt lên tất cả mọi chiến công. Ông đã biến những gì mà hàng trăm thế hệ trước chỉ coi là giấc mơ thì nay đã trở thành hiện thực. Cuối cùng sau khi miêu tả, GV đặt câu hỏi: các cuộc phát kiến địa lí đã có tác động như thế nào đến nền kinh tế và xã hội ở Châu Âu? 3/ Hình Vă n miếu- Quốc tử giám ( trang bìa SGK LS 7). Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía nam kinh thành Thăng Long thời nhà Lý. Là tổ hợp gồm hai di tích chính: Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết của Nho giáo và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam; và Quốc Tử Giám trường Quốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nam, với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu-Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến "cầu may" trước mỗi kỳ thi. 4/ Hình 25: Chùa Một Cột (SGK LS 7 trang 48) Chùa Một Cột chỉ có một gian nằm trên một cột đá ở giữa hồ Linh Chiểu nhỏ có trồng hoa sen. Truyền thuyết kể lại rằng, chùa được xây dựng theo giấc mơ của vua Lý Thái Tông (1028-1054) và theo gợi ý thiết kế của nhà sư Thiền Tuệ. Vào năm 1049, vua đã mơ thấy được Phật bà Quan Âm ngồi trên tòa sen dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy, nhà vua kể chuyện đó lại với bày tôi và được nhà sư Thiền Tuệ khuyên dựng chùa, dựng cột đá như trong chiêm bao, làm toà sen của Phật bà Quan Âm đặt trên cột như đã thấy trong mộng và cho các nhà sư đi vòng xung quanh tụng kinh cầu kéo dài sự phù hộ, vì thế chùa mang tên Diên Hựu. Hằng năm cứ đến ngày 8 tháng 4 Âm lịch, vua lại tới chùa làm lễ tắm Phật. Các nhà sư và nhân dân khắp Kinh thành Thăng Long cùng dự lễ. Sau lễ tắm Phật là lễ phóng sinh, vua đứng trên một đài cao trước chùa thả một con chim bay đi, rồi nhân dân cùng tung chim bay theo trong tiếng reo vui của một ngày hội lớn. 5/ Hình 30: Lược đồ diễn biến cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân Mông Cổ (1258) (SGK LS 7 trang56) êu cầu HS quan sát lược đồ, GV nêu câu hỏi: Em hãy trình bày tóm tắt diễn biến cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ? HS trình bày, GV nhận xét, tường thuật lại: Tháng 1/ 1258, quân Mông Cổ tiến vào nước ta theo đường sông Thao xuống Bạch Hạc rồi đến Bình Lệ Nguyên và bị chặn lại, tại đây một phòng tuyến do vua Trần Thái Tông chỉ huy và đánh một trận quyết liệt. Do thế giặc mạnh, ta lui về Thiên Mạc để bảo toàn lực lượng, theo lệnh triều đình nhân dân Thăng Long thực hiện kế hoạch “vườn không nhà trống” gây cho chúng nhiều nguy khốn. Nhân cơ hội này, ta phản công và giành thắng lợi lớn ở Đông Bộ Đầu. Bị bất ngờ, ngày 29/1/1258, quân Mông Cổ phải rút chạy khỏi Thăng Long về nước, trên đường rút chạy bị dân binh tập kích ở Quy Hóa đánh cho tan tác. Ta giành thắng lợi hoàn toàn. * KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC NĂM HỌC 2009- 2010 TSHS GIỎI KHÁ TBÌNH YẾU KÉM TBÌNH TRỞ LÊN 156 SL % SL % SL % SL % SL % SL % 28 17.9 48 30.7 55 35.2 8 5.1 17 10.8 131 84 C/ KẾT LUẬN CHUNG Với trách nhiệm của một người GV lịch sử, mỗi GV lịch sử hãy làm cho mình hiểu rõ sâu sắc về chức năng, nhiệm vụ, nội dung, đặc trưng của lao động giảng dạy lịch sử. Trong thời đại hiện nay đòi hỏi người GV lịch sử cần có chuyên môn sâu hơn, tinh tế hơn, sâu sắc hơn. Vì vậy người GV lịch sử cần nắm vững vai trò, vị trí giáo dục nói chung và giáo dục lịch sử nói riêng, nắm vững phương pháp dạy học, có thế giới quan, nhân sinh quan, nhân cách đúng đắn. Giảng lịch sử là giảng về quá khứ xã hội loài ngưòi, quá khứ dân tộc, quá khứ đó lại có liên quan mật thiết với hiện tại và tương lai. Vì vậy để giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức cho HS mỗi giáo viên phải là tấm gương sáng để HS luôn noi theo. Khi vấn đề đổi mới giảng dạy nói chung và đổi mới dạy học lịch sử nói riêng nhằm phát huy tính tích cực của học sinh thì phương pháp sử dụng kênh hình SGK lịch sử càng đóng góp một phần rất to lớn trong việc đổi mới giảng dạy lịch sử. Trên đây là vài kinh nghiệm trong giảng dạy trong bộ môn Lịch Sử lớp 7 chắc chắn sẽ cỏn nhiều thiếu sót và hạn chế. Rất mong sự đóng góp ý kiến từ BGH và các đồng nghiệp để nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn. Phường 4, ngày 10 tháng 11 năm 2010 Tổ Sử Địa. MỤC LỤC A/ Đặt vấn đề B/ Giải quyết vấn đề I/ Quan niệm về quá trình dạy học II/ Vị trí, ý nghĩa của kênh hình SGK trong dạy học lịch sử III/ Các loại kênh hình trong SGK LS 7 Bản đồ, lược đồ lịch sử Sơ đồ lịch sử Hình vẽ lịch sử Tranh ảnh lịch sử IV/ Phương pháp sử dụng kênh hình trong SGK LS Phương pháp sử dụng bản đồ, lược đồ, sơ đồ LS Phương pháp sử dụng tranh ảnh, hình vẽ LS V/ Thực tiễn việc sử dụng kênh hình SGK hiện nay VI/ Một số ví dụ minh họa C/ Kết luận chung TÀI LIỆU THAM KHẢO 1/ Phương pháp dạy học lịch sử ( Phan Ngọc Liên- Trần Văn Trị ) 2/ Kênh hình trong dạy học lịch sử ở trường THPT ( Nguyễn Thị Côi) 3/ Tài liệu hội nghị đổi mới PP giảng dạy và học tập môn LS ( Hội GD LS) 4/ Một số vấn đề về đổi mới PPDH ở trường THCS ( Bộ Giáo Dục) 5/ Sử dụng kênh hình SGK trong dạy lịch sử thế giới (Nguyễn Văn Hào) 6/ SGK LS 7 7/ Phát huy tính tích cực của HS trong dạy học LS ở trường THCS (Phan Ngọc Liên- Trịnh Đình Tùng)
Tài liệu đính kèm: