Đề tài Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học Vật lí ở trường THCS

Đề tài Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học Vật lí ở trường THCS

 a. phần mở đầu

i- lí do chọn đề tài

 Ngày nay, khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc phải ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã đưa tin học vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng CNTT trong giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế. Chúng ta cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản lý, chúng ta không nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của mình, mục đích của mình.

 

doc 11 trang Người đăng vultt Lượt xem 1156Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học Vật lí ở trường THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 a. phÇn më ®Çu
i- lÝ do chän ®Ò tµi
	Ngày nay, khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc phải ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã đưa tin học vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng CNTT trong giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế. Chúng ta cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản lý, chúng ta không nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của mình, mục đích của mình.
 Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ thông tin có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã hội học tập”. Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT. Bộ giáo dục và đào tạo cũng yêu cầu “đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở các môn”.
 Thực hiện tinh thần chỉ đạo trên của Bộ giáo dục – Đào tạo và của Sở giáo dục - Đào tạo Hải Dương, nhận thức được rằng, việc ứng dụng CNTT phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học là một trong những hướng tích cực nhất, hiệu quả nhất trong việc đổi mới phương pháp dạy học và chắc chắn sẽ được sử dụng rộng rãi trong nhà trường phổ thông trong một vài năm tới, tôi đã mạnh dạn học tập và đưa CNTT vào giảng dạy ba năm nay.
 Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong các tiết dạy, đặc biệt là đối với bộ môn Vật lí đó là vấn đề mà bất cứ một giáo viên nào cũng gặp phải khi có ý định đưa CNTT vào giảng dạy. Trong chuyên đề “Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học Vật lí ở trường THCS”, 
b- néi dung nghiªn cøu
i- c¬ së lÝ luËn
Trong thời đại ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật và công nghệ thông tin, làn sóng vĩ đại của công nghệ đang tổ chức lại một cách cơ bản đời sống xã hội của con người về mọi mặt từ kinh tế đến văn hoá. Sự bùng nổ về thông tin đặt ra nhu cầu về tiếp nhận thông tin và giải quyết vấn đề của con người ngày càng phải nâng cao không ngừng và đáp ứng kịp với yêu cầu của thời đại. Do vậy, việc đào tạo ra những con người có năng lực, có trình độ nhận thức cao đang là mục tiêu hàng đầu của nhân loại trong thế kỉ XXI.
Xu thế chung đã đưa giáo dục trở thành quốc sách hàng đầu, thành lĩnh vực được nhiều quốc gia chú trọng đầu tư. Đại hội lần thứ VII (1991) của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu đồng thời đã vạch ra phương hướng chung để đổi mới sự nghiệp giáo dục. Từ thực tiễn kinh tế - xã hội của đất nước thời kì đổi mới, Đảng và nhà nước ta đã xác định nhiệm vụ của giáo dục là nhằm “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài xây dựng những con người mới năng động sáng tạo”, về mục tiêu đào tạo là hình thành thế hệ trẻ phát triển toàn diện: “Nhà trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng toàn diện và có năng lực chuyên môn sâu, có tri thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế nhiều thành phần”(Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII). 
Cùng với những cuộc cải cách toàn diện về kinh tế, xã hội yêu cầu cải cách giáo dục cũng đã được đặt ra. Người ta đề cập nhiều đến chất lượng giáo dục, đến chương trình sách giáo khoa cho các cấp, đến đổi mới phương pháp dạy học. Tiếp nối cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3 (1979) chương trình sách giáo khoa cải cách đã được biên soạn và áp dụng cho cấp THCS vào năm 1986 và THPT vào năm 1990. Cho đến năm 2001, trước thực tiễn mới của giáo dục quốc tế và giáo dục trong nước, công cuộc cải cách sách giáo khoa tiếp tục được Bộ Giáo dục và Đào tạo tiến hành, cuộc cải cách bắt đầu thay sách giáo khoa cấp tiểu học đến sách giáo khoa cấp THCS và hiện nay đang tiến hành ở cấp THPT theo hình thức cuốn chiếu. 
Sự đổi mới của mục tiêu giáo dục và nội dung giáo dục đặt ra yêu cầu phải đổi mới phương pháp dạy học. Nghị quyết TW 2, khoá VIII đã xác định mục tiêu của việc đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo là nhằm: “khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện vào quá trình dạy và học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh, nhất là sinh viên đại học.” 
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng dạy học các môn nói chung, phương pháp dạy học Vật lí nói riêng đã được đặt ra và thực hiện một cách cấp thiết cùng với xu hướng đổi mới giáo dục chung của thế giới. Luật giáo dục sửa đổi đã chỉ rõ: “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đạc điểm của từng lớp học, từng môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”.
Trong một thập niên trở lại đây, nhiều quan niệm, phương pháp dạy học mới đã và đang được nghiên cứu, áp dụng ở trường phổ thông như: dạy học nêu vấn đề, dạy học tích cực, dạy học lấy học sinh làm trung tâm, dạy học theo dự án, dạy học với sự hỗ trợ của công nghệ . Tất cả đều nhằm mục đích tích cực hoá hoạt động của học sinh, phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh. Đặc biệt việc sử dụng công nghệ tin học để xây dựng bài giảng điện tử (hay giáo án điện tử) các môn nói chung, dạy học Vật lí nói riêng, được xem là một trong những công cụ đem lại hiệu qủa tích cực trong việc đổi mới việc dạy và học.
iii- sö dông c«ng nghÖ th«ng tin trong d¹y häc vËt lÝ
Ý nghĩa của việc sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học Vật lí.
 Hiện nay CNTT đang phát triển với tốc độ như vũ bão. Các nhà bác học khảng định:
 - Chưa có một ngành khoa học công nghệ nào lại phát triển nhanh chóng, sâu rộng và có nhiều ứng dụng như tin học.
 - Việc ứng dụng tin học trong nhà trường rất đa dạng và phong phú, tin học trong dạy học có thể tiếp cận nhiều phương tiện, là công cụ tiện ích trong các môn học nói chung và môn Vật lí nói riêng.
 - Trên thế giới ứng dụng CNTT vào giáo dục đã trở thành mối ưu tiên hàng đầu của nhiều nước.
 1.1 Trực quan hóa
 - Trực quan hóa là biểu diễn thông tin có tính cấu trúc dưới dạng có thể nhìn thấy được.
 - Trực quan hóa tăng cường khả năng tư duy của học sinh khi tiếp nhận với những tri thức trừu tượng. Ví dụ: Chuyển động quay của trái đất quanh mặt trời, hoạt động của động cơ đốt trong
 - Nhờ CNTT mà khi đưa ra mô hình giáo viên có thể phóng to, thu nhỏ, làm nhanh, làm chậm để học sinh thấy rõ được bản chất của quá trình. Do đó CNTT giúp học sinh hiểu sâu hơn về bản chất của các quá trình và đặc biệt là nắm vững những khái niệm trừu tượng trong Vật lí. 
 1.2 Kích thích tính tò mò và hứng thú của học sinh
 - Để kiểm tra bài cũ, giáo viên có thể đưa ra ô chữ liên quan đến những kiến thức đã học và tổ chức cho học sinh tham gia trò chơi một cách bổ ích.
 - Tạo tình huống có vấn đề bằng các đoạn phim ngắn, kích thích tính tò mò của học sinh, đặt ra nhiệm vụ theo dõi bài học để giải quyết tình huống.
 - Trong quá trình dạy có thể có những hình ảnh động mang tính hài hước liên quan đến bài học nhằm giải toả tâm lý căng thẳng trong giờ học.
 1.3 Quản lý và xử lý thông tin
 - Khi làm việc trên máy tính học sinh có cơ hội để đọc và thu thập dữ liệu, rèn luyện tư duy. 
 - Cung cấp thông tin nhanh chóng, chính xác với nhiều hình thức khác nhau.
 - Giáo viên có thể quản lý tài liệu một cách có trật tự và theo ý muốn của mình. Khi cần, tra cứu và lấy thông tin rất nhanh.
 - Rèn luyện cho học sinh kỹ năng tra cứu tài liệu trên mạng và xử lý thông tin một cách có trọng tâm.
Điều chỉnh hoạt động học tập 
 - Khi tiếp xúc với CNTT hiện đại, buộc học sinh phải điều chỉnh lại cách nhận thức và học tập của mình.
 - Với những hình ảnh sống động thể hiện ngay trên máy tính làm cho học sinh hứng thù và tò mò để phát hiện ra các kiến thức mới.
 - Với sự giúp đỡ của máy tính học sinh dễ dàng trắc nghiệm lại kiến thức của mình sau đó tự điều chỉnh lại cho phù hợp.
Mô hình hoá
 - Không phải mọi quá trình vật lý xảy ra trong tự nhiên đều dễ dàng quan sát, có những hiện tượng, quá trình vật lý không thể quan sát bình thường, có quá trình xảy ra nhanh, có quá trình xảy ra chậm, có đối tượng quan sát rất nhỏ... 
 - Vì vậy, trong dạy học cần phải phóng đại, làm nhanh, làm chậm lại các quá trình đó, do đó cần phải có mô hình và máy tính can thiệp. Ví dụ quá trình hoạt động trong nguyên tử, từ trường, điện trường, vật ném xiên, ném ngang... các quá trình này rất cần mô hình ảo và sự trợ giúp của máy tính. 
Thiết kế
 Bài giảng điện tử là các bài giảng được soạn và giảng trên máy tính kết hợp máy chiếu, nó có nhiều ưu điểm:
 - Giờ giảng hiệu quả hơn: dễ hiểu, hấp dẫn, kiến thức toàn diện hơn.
 - Phát huy được các ưu điểm của phương pháp truyền thống.
 - Có thể tự động hoá công việc dạy học hoặc một khâu nào đó trong quá trình dạy học, làm cho giáo viên có nhiều thời gian quan tâm hơn đến học sinh.
 - Bài giảng được lồng ghép với thí nghiệm ảo, các đoạn phim minh hoạ các hiện tượng vật lý xảy ra trong thưc tế làm tăng thêm sự hấp dẫn của bài giảng. Liên kết với các trang Web cùng trình bày vấn đề ở các trường, các nước khác nhau. 
 - Cùng một thời gian khối lượng kiến thức được truyền đạt nhiều hơn.
Tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh 
 - Nếu sử dụng đúng cách, CNTT có thể có tầm ảnh hưởng làm biến đổi hệ thống giáo dục, nó có xu hướng đánh giá lại vai trò của giáo viên và học sinh.
 - Phương pháp giáo dục hiện đại thì người giáo viên là người hướng dẫn và cộng tác viên, không còn đơn thuần là người truyền đạt thông tin. 
 - Học sinh dựa trên các đề án, tự học, tự tìm hiểu, tự quản lý và có trách nhiệm đối với chất lượng học tập của mình.
 - Vì vậy mở rộng được không gian học tập ra phạm vi ngoài lớp học. Giúp học sinh tích cực chủ động và không thụ động trong học tập.
Kiểm tra đánh giá khách quan
 - CNTT đặc biệt là máy tính có thể sử dụng các phần mền để làm các câu hỏi trắc nghiệm, các phần mềm phân tích và đánh giá các kiểm tra.
 - Trong kiểm tra trắc nghiệm máy tính có thể đóng vai trò vừa là thiết bị kiểm tra vừa là thiết bị đánh giá, tổng hợp, thống kê
 2. sö dông phÇn mÒm power point vµo viÖc x©y dùng bµi gi¶ng ®iÖn tö m«n vËt lÝ ë tr­êng thcs
2.1 Giới thiệu khái quát về phần mềm PowerPoint.
 Để thiết kế bài giảng điện tử trong dạy học các bộ môn ở trường phổ thông, giáo viên có thể chọn lựa nhiều phần mềm  ...  dễ mắc phải, đó là: 
- Quá lạm dụng đến hiệu ứng, kỹ thuật trình diễn trên bài giảng điện tử ví dụ như: tạo các hiệu ứng “bay nhảy” kèm theo âm thanh, trang trí các slide với mầu sắc sặc sỡ, loè loẹt, kết nối với các phim, ảnh lôi cuốn người học, nhưng chuyển tải nội dung rất ít, có khi phản tác dụng giáo dục; lựa chọn nhiều background, phông chữ, màu sắc khác nhau thiếu tính nhất quán, ít hài hòa và nhất là không thể hiện được tính sư phạm trong cả hình thức lẫn nội dung trình bày.
- Một hạn chế khác mà giáo viên phổ thông thường hay mắc phải là ít chú ý tính hệ thống của kết cấu bài giảng (cách trình bày bảng đen truyền thống thường bảo đảm được yêu cầu này cho đến khi kết thúc tiết học), nội dung trình bày trên các slide gần như độc lập nên khi trình chiếu sang một đề mục mới thì các đề mục trước đó hầu như không còn xuất hiện nữa khiến cho nhận thức của học sinh dễ rơi vào sự tản mạn thiếu tính hệ thống.
- Các dạng thông tin trình bày trên slide của một số bài giảng điện tử còn nghèo nàn, chủ yếu là trình bày một văn bản để trình chiếu trên màn hình thay cho việc ghi chép, mà chưa chú ý đến kiến thức cơ bản, trọng tâm hay sơ đồ hóa các nội dung văn bản. Ngược lại nhiều giáo viên ôm đồm, muốn đưa nhiều dạng thông tin Multimedia để trình chiếu cùng một lúc trên các slide khiến cho bố cục trình bày rối rắm và các thông tin đến với học sinh bị nhiễu loạn, khó nhận ra đâu là kiến thức cơ bản, trọng tâm. Từ đó, những kiến thức còn đọng lại nơi học sinh sau giờ học không rõ ràng, thiếu tính hệ thống và không bền vững.
- Nhiều bài giảng điện tử do giáo viên lạm dụng về thời gian trình chiếu đã không đảm bảo về chất lượng giờ học, không bao quát được tình hình lớp học, tình trạng học sinh ghi chép bài không kịp hoặc không ghi chép nội dung bài học vẫn xảy ra. 
2.2 Qui trình xây dựng một bài giảng điện tử
Để đạt được một bài học Vật lí hiệu quả, GV cần tuân thủ quy trình xây dựng BGĐT gồm các bước sau:
- Xây dựng giáo án: bao gồm chuẩn bị nội dung, sưu tập tài liệu điện tử.
- Thiết kế BGĐT: sử dụng phần mềm PowerPoint để thiết kế bài giảng.
- Kiểm định sự hoàn thiện của BGĐT: trình chiếu thử, phát hiện lỗi.
2..2.1 Xây dựng giáo án
- Xác định rõ mục đích yêu cầu của bài học
- Xác định những kiến thức cơ bản, trọng tâm mà học sinh cần nắm vững trong tiết học.
- Sưu tầm, chọn lọc các phần mềm, tranh ảnh, băng ghi âm có liên quan đến những kiến thức cơ bản đã được xác định. Xử lý, số hoá các tài liệu đã chọn lọc sau đó đóng gói vào trong một Folder và đặt file name phù hợp để dễ tìm và nhớ đưa kèm theo khi ghi BGĐT vào CD.
2.2.2 Thiết kế bài giảng
 Xây dựng kế hoạch thiết kế cụ thể của các Slide trình diễn (kịch bản). Dự kiến số slide thích hợp với số lượng đối tượng được lựa chọn để trình diễn và tương ứng với kế hoạch cụ thể mà giáo án lên lớp đã xác định.
2.2.3 Kiểm định sự hoàn thiện của BGĐT.
- Tiến hành thiết kế và chạy thử từng phần rồi toàn bộ các slide (có đối chiếu với trình tự các hoạt động được trình bày trong giáo án), chỉnh sửa nội dung, hình thức các slide, kiểu và thứ tự trình bày các hiệu ứng cho hợp lý hơn với mục tiêu, kế hoạch sư phạm mà giáo án và kịch bản đã đề ra.
- Ghi lại tập tin PowerPoint của BGĐT lên đĩa CD để lưu trữ, sử dụng trên lớp và phòng tránh tình trạng máy tính có tập tin lưu trữ bị gặp sự cố. (Lưu ý: phải ghi lại các tập tin có liên kết, nhất là các tập tin âm thanh, phim có sử dụng trong bài giảng điện tử.)
3. khai th¸c tµi nguyªn trªn internet phôc vô bµi gi¶ng vËt lÝ
 Những tài nguyên được lựa chọn sẽ làm cho bài giảng trở nên phong phú, sống động, hấp dẫn hơn, HS sẽ tiếp thu bài giảng một cách tự nhiên. Internet là một thành tựu có tính đột phá của nhân loại cuối thế kỷ XX mà lịch sử sẽ ghi nhận có vai trò tương đương với việc phát minh ra lửa, máy hơi nước, điện năng hay năng lượng hạt nhân, là một công cụ vô cùng hiệu quả cho việc khai thác tài nguyên phục vụ cho các bài giảng Vật lí.
3.1 Một số yêu cầu và điều kiện để khai thác Internet
 Là một công cụ rất hiệu quả và một kho thông tin vô tận, nhưng Internet cũng đòi hỏi giáo viên phải được trang bị những kiến thức, kỹ năng và những điều kiện nhất định. Điều cần thiết đầu tiên là ngoại ngữ. Tuy các nội dung tiếng Việt đang phát triển với tốc độ rất nhanh nhưng nguồn thông tin lớn nhất và phong phú nhất trên Internet là bằng tiếng Anh, tiếng Nga và tiếng Trung Quốc. Nếu không có ngoại ngữ, giáo viên bị hạn chế khá nhiều. Thứ hai, những hiểu biết cơ bản dù chỉ ở mức đại cương như truy cập vào Internet thế nào? làm thế nào để sử dụng những công cụ tra cứu tìm kiếm?.... sẽ giúp ích rất nhiều cho việc tìm kiếm tài nguyên. Ngoài những thông tin có thể tìm kiếm trực tiếp trên website, việc liên lạc trực tiếp bằng thư tín điện tử (e-mail) với các đồng nghiệp ở xa, các viện nghiên cứu có thể tìm thấy trên Internet có thể giúp cung cấp những tài nguyên quý. Điểm cuối cùng cũng rất quan trọng đó là muốn khai thác Internet thì cần phải truy cập được vào Internet bằng cách nào đó. Vấn đề này đã trở nên dễ dàng hơn với các điểm truy cập Internet được mở ở nhiều nơi, và hầu hết các trường cũng đã nối mạng Internet.
3.2 Lựa chọn tài nguyên như thế nào cho phù hợp với nội dung bài giảng.
 Khi tìm kiếm: lựa chọn tài nguyên cho bài học điều quan trọng nhất là tính phù hợp. Tài nguyên phù hợp là tài nguyên liên quan đến nội dung bài giảng; có nội dung, hình thức đa dạng (thông tin, hình ảnh,...) và được chọn lọc; lượng thông tin bổ sung vừa đủ không ít quá, cũng không nhiều quá làm loãng nội dung.
 Về nội dung: tài nguyên phải liên quan đến nội dung bài giảng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm hướng tư duy học sinh đến các nhận định, bài học.
 Về hình thức: nếu đã có một tài nguyên là văn bản hay kiến thức thì tài nguyên khác nên được cung cấp dưới dạng ảnh.
 Về dung lượng: hiển nhiên thông tin và tài nguyên chỉ được chiếm một tỷ lệ vừa đủ cả về thông tin và thời gian cung cấp thông tin. Tài nguyên không thể lấn át nội dung chính của bài giảng mà nó bổ sung, làm cho kiến thức được cung cấp được hấp thụ dễ dàng và toàn diện hơn.
iv- Bµi gi¶ng minh häa
Giáo án
TiÕt 10, Bµi 9: ¸p suÊt khÝ quyÓn VËt lÝ 8
A- Môc tiªu
1) Kiến thức
- Nêu được ví dụ chứng tỏ sự tồn tại của áp suất khí quyển.
- Giải thích được sự tồn tại của lớp khí quyển và áp suất khí quyển.
- Giải thích được cách đo áp suất khí quyển cảu thí nghiệm Tô-ri-xen-li và một số hiện tượng đơn giản.
- Hiểu được vì sao áp suất khí quyển 
B- chuÈn bÞ
C- tæ chøc ho¹t ®éng d¹y häc
v- kÕt qu¶ thùc hiÖn
 Nhà trường đã tổ chức huấn luyện cho mọi người cách sử dụng các thiết bị hiện đại, sử dụng phần mềm Power Point và một số phần mềm khác theo đặc trưng của từng bộ môn. Hình thức huấn luyện khá linh động, tùy nội dung hoàn cảnh mà thay đổi, có lúc huấn luyện cho đông đảo tập thể giáo viên, có lúc phải tách ra, huấn luyện từng tổ bộ môn, có lúc lại tổ chức kèm cặp riêng cho một số ít người. Tùy theo đặc trưng của mỗi bộ môn và khả năng của từng giáo viên mà nhấn mạnh hướng dẫn các nội dung khác nhau của CNTT, hoặc các tiện ích khác nhau của các thiết bị dạy học. 
 Kết quả là đến nay, phần lớn giáo viên đã soạn giáo án vi tính, một số thầy cô có thể dùng Power Point kết hợp cùng nhiều phần mềm khác để tự soạn giáo án điện tử. Nhiều giáo viên đã biết scan và xử lý ảnh tốt, biết vào Internet tìm kiếm thông tin, hình ảnh, hình mẫu đưa vào minh họa trong bài giảng... 
 Nhà trường đã tổ chức được phong trào thi đua giảng dạy bằng phương pháp hiện đại. Do vậy, tuy chuẩn bị cho một tiết dạy bằng giáo án điện tử tốn nhiều thời gian và công sức hơn nhưng giáo viên ở tất cả các bộ môn đều hăng hái đăng ký. Kết quả từ đầu năm học đến nay đã có rất nhiều tiết dạy bằng phương pháp dạy học mới với việc vận dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại ở hầu hết các môn học. 
Trong thực tế, việc dạy học theo phương pháp hiện đại cũng còn có nhiều vấn đề phải bàn bạc. Có môn học, có bài học thuận lợi, đạt hiệu quả cao. Nhưng cũng có môn học, có tiết học khó khăn, đạt hiệu quả thấp. Tuy nhiên, nhà trường đã mạnh dạn để cho tất cả mọi người, mọi môn học tích cực thực hiện việc dạy học theo phương pháp này, cốt để giáo viên thành thạo, vượt qua được những e ngại ban đầu. Khi mọi người đều đã có thực tế trong giảng dạy, nhà trường mới tổ chức rút kinh nghiệm. 
Ban giám hiệu trường THCS đặt vấn đề vận dụng CNTT trong dạy học là nhằm để nâng cao chất lượng đào tạo. Khảo sát hiệu quả từ phía học sinh cho thấy, nếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống với phấn trắng bảng đen thì hiệu qua mang lại chỉ có %, trong khi hiệu quả của phương pháp multêmedia (nhìn - nghe) lên đến %. Phần lớn học sinh đều thích những giờ học dạy bằng giáo án điện tử với rất nhiều hình ảnh, âm thanh minh họa đẹp mắt, sinh động đã làm cho các em hứng thú, say mê học tập. Cùng một thời lượng như nhau nhưng số lượng kiến thức và kỹ năng các em thu nhận được lại nhiều hơn, cụ thể, sinh động, sâu sắc và chắc chắn hơn. Số lượng bài tập thực hành của các em cũng được rèn luyện nhiều hơn, thành thục hơn. 
Hầu như tất cả các giờ học được dạy theo phương pháp này không có một học sinh nào tỏ ra chán nản, lười biếng học tập hoặc học với tâm trạng đối phó, thụ động, mà ngược lại các em đều rất thích thú. Rõ ràng học tập đối với các em đã trở thành một niềm vui lớn. 
C- kÕt luËn 
Sự bùng nổ của Công nghệ thông tin (CNTT) nói riêng và Khoa học công nghệ nói chung đang tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của tất cả các ngành trong đời sống xã hội. Trong bối cảnh đó, nếu muốn nền giáo dục phổ thông đáp ứng được đòi hỏi cấp thiết của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nếu muốn việc dạy học theo kịp cuộc sống, chúng ta nhất thiết phải cải cách phương pháp dạy học theo hướng vận dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại phát huy mạnh mẽ tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành và hứng thú học tập của học sinh để nâng cao chất lượng đào tạo.
Đối với giáo dục và đào tạo, CNTT có tác động mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp, phương thức dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới một “xã hội học tập”. Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT. Bộ Giáo dục - Đào tạo cũng đã yêu cầu: “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập ở tất cả các môn học” 
Vận dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại để đổi mới phương pháp dạy học đối với tất cả các môn học ở trường phổ thông, qua thực tế đã chứng minh đều có tác dụng nâng cao chất lượng đào tạo rõ rệt.

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn Li thcs.doc