D
ạy học lấy học sinh làm trung tâm, người học được xem là chủ thể số một của hoạt động dạy học là quan niệm cơ bản của lý luận và phương pháp dạy học hiện đại. Trong phương pháp mới người giáo viên phải biết định hướng cho học sinh tự mình chiếm lĩnh kiến thức thông qua tổ chức hướng dẫn hoạt động của một giờ dạy. Đó là sự thay đổi căn bản trong quan niệm về vai trò của người dạy và người học theo tinh thần đổi mới.
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG CỦA HỌC SINH TRONG DẠY – HỌC VĂN QUA HỆ THỐNG CÂU HỎI D ạy học lấy học sinh làm trung tâm, người học được xem là chủ thể số một của hoạt động dạy học là quan niệm cơ bản của lý luận và phương pháp dạy học hiện đại. Trong phương pháp mới người giáo viên phải biết định hướng cho học sinh tự mình chiếm lĩnh kiến thức thông qua tổ chức hướng dẫn hoạt động của một giờ dạy. Đó là sự thay đổi căn bản trong quan niệm về vai trò của người dạy và người học theo tinh thần đổi mới. Một giờ dạy văn thực sự có hiệu quả và chất lượng là giờ văn gây hứng thú say mê cho học sinh. Muốn vậy, giáo viên phải khéo léo đưa ra những vấn đề, những tình huống thú vị để dẫn dắt học sinh. Các tình huống ấy, các vấn đề ấy được thể hiện chủ yếu dưới dạng các câu hỏi. Bằng hệ thông câu hỏi, giáo viên sẽ tạo được một hệ thống việc làm giúp học sinh thi công bài học của mình đồng thời khi học sinh làm việc theo hệ thống câu hỏi các em tự mình bày tỏ chủ kiến, cảm xúc của mình. Do đó đây là yêu cầu có tính hai mặt: vừa là hoạt động thiết kế cụ thể của thầy, lấy đó làm phương tiện để tổ chức hướng dẫn học sinh tích cực, chủ động chiếm lĩnh tác phẩm vừa là hoạt động của trò lấy đó để học, để tự bộc lộ năng lực cảm xúc và tư duy của mình trong tiếp cận tác phẩm. Hệ thống câu hỏi này là cách đề cao vai trò thiết kế của giáo viên trong việc sáng tạo hệ thống câu hỏi và chức năng tự học của học trò. Vì vậy, thiết kế hệ thống câu hỏi là điều kiện tiên quyết, cơ bản để phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập, làm cho giáo án môn văn có cấu trúc song hành - hô ứng giữa hoạt động của hai chủ thể trong một bài học, tránh được tình trạng đọc - chép và thuyết giảng một chiều của lối dạy theo phương pháp truyền thống. Từ sau lần thay sách 1986 cho đến chương trình đổi mới hiện nay các phương pháp dạy - học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh đã được nhận thức, quán triệt và đã trở thành quan niệm chủ đạo cũng như việc làm thường trực của giáo viên đứng lớp. Điều này đã luôn được xác định là khâu trọng tâm, cơ bản của hoạt động dạy học ở nhà trường phổ thông cơ sở. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện nó vẫn bộc lộ nhiều điều bất cập cũng như lúng túng. Vì thế mà hiệu quả, chất lượng của một giờ dạy- học văn vẫn chưa cao. Từ thực tế giảng dạy chúng tôi nhận thấy : Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trên thực tế chưa thực sự được chú trọng đúng mức , vẫn còn tình trạng đọc- chép và diễn giảng, truyền thụ một chiều mang tính áp đặt do giáo viên ngại khó, chưa thật sự đầu tư thời gian, công sức vào hệ thống câu hỏi . Câu hỏi trong giờ dạy văn để dẫn dắt định hướng gợi mở cho học sinh còn chưa thật phong phú, thiếu tính hệ thống, chưa phù hợp với các loại đối tượng học sinh. Các câu hỏi chủ yếu nặng về câu hỏi phát hiện, còn thiếu loại câu hỏi nâng cao, câu hỏi giảng bình, chưa sử dụng một cách linh hoạt, chính xác các loại câu hỏi cho phù hợp với nội dung khác nhau của bài giảng. Có tình trạng rơi vào hỏi đáp liên miên, giờ dạy chỉ còn hỏi và đáp với những câu hỏi quá vụn vặt, phá vỡ hệ thống lô gích của bài giảng khiến cho quá trình tiếp thu tri thức của học sinh không có một định hướng rõ rệt . Tất cả những điều đó đã tạo nên những quan niệm, những cách làm nguợc xuôi không giống nhau, thành thử việc đổi mới phương pháp dạy - học theo hướng tích cực đã bộc lộ nhiều hạn chế. Với thực trạng đó xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học văn là một vấn đề bức xúc đặt ra với mỗi giáo viên đứng lớp. Để nâng cao chất lượng hiệu quả dạy học văn, theo chúng tôi cần phải đầu tư thời gian công sức thích đáng để thiết kế hệ thống câu hỏi nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh. Đ ể thiết kế hệ thống câu hỏi thực sự có hiệu quả, giáo viên phải nắm vững các vấn đề sau : 1. Các loại câu hỏi Câu hỏi trong một giờ dạy học văn là rất đa dạng, phong phú. Có câu hỏi cảm nhận, có câu hỏi tái hiện, có câu hỏi tổng hợp khái quát, câu hỏi cụ thể chi tiết, có câu hỏi phát hiện, câu hỏi phân tích, câu hỏi đối chiếu so sánh, câu hỏi gợi mở, câu hỏi về kiến thức cơ bản, câu hỏi nên vấn đề Đối với từng phần nội dung của bài học, đối với từng đối tượng học sinh giáo viên cần phải sử dụng một cách linh hoạt để học sinh cùng làm việc một cách tích cực, chủ động tạo không không khí hào hứng sôi nổi trong lớp học, tránh tình trạng chỉ sử dụng một loại câu hỏi vừa đơn điệu,vừa tẻ nhạt, vừa không kích thích hứng thú học tập của các em. Hiện nay, phần lớn câu hỏi trong giờ giảng văn thường chỉ tập trung ở dạng câu hỏi : câu hỏi phát hiện, thường loại câu hỏi gợi mở, câu hỏi khái quát tổng hợp, câu hỏi phân tích giảng bình còn ít được sử dụng . 2. Yêu cầu của thiết kế hệ thống câu hỏi Các câu hỏi phải đảm bảo nội dung kiến thức yêu cầu của bài học. Hệ thống câu hỏi phải bám sát mục đích yêu cầu và kiến thức trọng tâm bài học. Nếu bám sát mục đích yêu cầu và kiến thức trọng tâm thì hệ thống câu hỏi thiết kế sẽ đúng hướng, vận hành một giờ văn sẽ có hiệu quả. Xa rời yêu cầu của bài học, hệ thống câu hỏi sẽ thừa thải, chông chênh, vô nghĩa dẫn học sinh xa rời tác phẩm. Câu hỏi phải có tính hệ thống , các câu hỏi trong bài dạy học văn phải đảm bảo trình tự hợp lý khoa học. Cả bài học là một hệ thống không rời rạc, chắp vá, gặp đâu hỏi đó. Muốn làm tốt được việc này, giáo viên phải xác định được bố cục bài giảng một cách rõ ràng, các câu hỏi sẽ đi theo bố cục ấy. Nhìn vào hệ thống câu hỏi người ta có thể hình dung được nội dung tác phẩm, kiến thức trọng tâm , con đường cảm thụ văn chương của thầy và trò như thế nào? Cần tránh những câu hỏi quá vụn vặt, quá chi tiết sẽ phá vỡ tính hệ thống. Các câu hỏi chỉ phát huy được ý nghĩa, sức mạnh khi được đặt trong hệ thống . Câu hỏi phải có vấn đề. Câu hỏi cần phải được hiểu là một loại bài tập để tạo dựng những tình huống có vấn đề buộc học sinh phải suy nghĩ, động não để chủ động trong việc tiếp thu tri thức. Các câu hỏi phải lần lượt bóc tách từng phần nội dung kiến thức của bài học. Tránh những câu hỏi lan man, vô nghĩa, hỏi mà không có vấn đề, không có tình huống để giải quyết. Câu hỏi phải phong phú phù hợp với đối tượng học sinh. Các câu hỏi phải đa dạng đầy đủ chủng loại: có câu hỏi khó, có câu hỏi dễ, có câu hỏi cụ thể chi tiết, có câu hỏi tổng hợp khái quát để đối tượng học sinh nào cũng có cơ hội được làm việc, được trả lời. Tránh tình trạng chỉ dồn vào một số em hocï sinh khá giỏi. Trong giờ văn để học sinh làm việc có hiệu quả, giáo viên phải lường trước được các tình huống xảy ra. Nếu học sinh không trả lời được, hoặc trả lời không đúng hướng thì giáo viên phải sử dụng một loạt câu hỏi phụ để gợi mở. Loại câu hỏi gợi mở này tuỳ thuộc vào bản lĩnh ứng xử của giáo viên trong từng tình huống cụ thể.Với loại câu hỏi này giáo viên phải hết sức chủ động linh hoạt, phải nắm vững vấn đề và xử lý nhanh, nhạy. Thiết kế hệ thống câu hỏi cho một số bài giảng Chúng tôi xin giới thiệu ba kiểu bài đại diện cho ba loại văn bản: tự sự, trữ tình và ký để các bạn cùng tham khảo. Bài 1: Trong lòng mẹ Hoạt động của thầy Hoat động của trò Hồi ký là một thể văn được dùng để ghi lại những chuyện có thật đã xảy ra trong cuộc đời một con người cụ thể, thường đó là tác giả. Theo dõi văn bản Trong lòng mẹ, cho biết: Chuyện gì đựơc kể trong hồi kí này? Nhân vật chính của hồi kí này là ai? Quan hệ giữa nhân vật chính với tác giả cần được hiểu như thế nào? Trong hồi kí này, tác giả sử dụng phương thức tự sự kết hợp với biểu cảm. Theo em, sức truyền cảm của văn bản này phụ thuộc vào một phương thức nổi bật nào hay phụ thuộc vào sự đan xen của cả hai phương thức đó? Câu chuyện của bé Hồng được kể trong hai sự việc chính. Đó là các sự việc nào? Mỗi sự việc liên quan đến phần văn bản cụ thể nào? Những đồng cảm sâu sắc của em được gợi lên từ sự việc nào? Theo dõi phần đầu văn bản Trong lòng mẹ. Hãy cho biết: Cảnh ngộ của bé Hồng có gì đặc biệt? Cảnh ngộ ấy tạo nên thân phận bé Hồng như thế nào? Theo dõi cuộc đối thoại giữa người cô và bé Hồng, hãy cho biết: Nhân vật “cô tôi” có quan hệ như thế nào với bé Hồng? Nhân vật người cô hiện lên qua các chi tiết, lời nói điển hình. Hãy liệt kê những chi tiết này? Vì sao bé Hồng cảm nhận trong lời nói đó những ý nghĩa cay độc, những rắp tâm tanh bẩn,? Nhừng lời lẽ đó bộc lộ tính cách nào của người cô? Trong những lời lẽ của người cô, lời nào cay độc nhất? Vì sao? Trong cuộc đối thoại này, bé Hồng đã bộc lộ những cảm xúc và suy nghĩ của mình Hãy tìm những chi tiết bộc lộ cảm nghĩ của bé Hồng đối với người cô? Ơû đây, phương thức biểu đạt nào được vận dụng? Tác dụng của phương thức biểu đạt này? Có thể hiểu gì về bé Hồng từ trang thái tâm hồn đó của em? d. Cảm xúc của em khi đọc những tâm sự đó của bé Hồng. Khi kể về cuộc đối thoại của người cô với bé Hồng, tác giả đã sử dụng nghệ thuật tương phản. Hãy chỉ ra phép tương phản này. Nhận xét về ý nghĩa của phép tương phản đó. Theo dõi phần thứ 2 của văn bản Trong lòng mẹ. Hãy cho biết: Hình ảnh ... o em, trong những lời lẽ vừa rồi, nhân vật “tôi” đã tự bộc lộ tình cảm nào của mình đối vối hai cây phong? 11. a.Em hiểu gì về trạng thái tâm hồn của người kể chuyện xưng “tôi” từ lời văn biểu cảm sau: Ta sắp được thấy chúng chưa, hai cây phong sinh đôi ấy? Mong sao chóng về với làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong! Rồi sau đó cứ đứng dưới gốc cây để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa, ngây ngất. b.Tại sao cãm xúc đó lại gắn liền với một nỗi buồn da diết ở nhân vật “tôi”? 12. Ở đoạn văn miêu tả sự sống của hai cây phong, nhân vật “tôi’ nghe được tiếng nói riêng, tâm hồn riêng chan chứa những lời ca êm dịu của chúng. Điều đó cho thấy nhân vật “tôi” là người như thế nào? 13.Cái điều nhân vật “tôi” chưa hề nghĩ đến thời bé: “Ai là ngừơi đã trồng hai cây phong trên đồi này? Người vô danh ấy đã ước mơ gì ấp ủ những niềm hi vọng gì?” gợi cho ta hiểu thêm điều gì về nhân vật “tôi” hiện tại? 14.Em đọc được những điều đáng quý nào trong tâm hồn nhân vật “tôi” từ tất cả những biểu hiện đó? 15.Đọc văn bản Hai cây phong, em cảm nhận được những vẻ đẹp nào của thiên nhiên và con người đựơc phản ánh? 16.Nếu nhân vật “tôi” mang hình bóng của chíng tác giả Ai-ma-tốp thì em sẽ hiểu gì về nhà văn này từ Hai cây phong của ông? 17.Văn bản Hai cây phong , với vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người đã thức dậy tình cảm nào trong em? 18. Trong văn học, tình yêu quê hương, đất nước có thể biểu hiện bằng cây cối, dòng sông, con đường, ngõ xóm Em hãy tìm một tác phẩm văn học Việt Nam có cách diễn đạt tình quê như thế. 1. – Hình ảnh con người: nhân vật “tôi” và “chúng tôi”. Hình ảnh thiên nhiên: hai cây phong và thảo nguyên. 2. a.Khi kể về những xúc cảm tâm hồn riêng về hai cây phong b.Khi thể hiện cảm xúc tập thể(trong đó có tôi) về hai cây phong và thảo nguyên. c.- Mở rộng cảm xúc, vừa riêng vừa chung. Cho thấy tình yêu thiên nhiên và làng quê là tình yêu sâu sắc và rộng lớn của cả một thế hệ. 3. a.Kết hợp tự sự với miêu tả và biểu cảm. b.Miêu tả và biểu cảm. 4. a.Giữa một ngọn đồi, có hai cây phong lớn, hiện ra trước mắt hệt như những ngọn hải đăng đặt trên núi. b.- Chỉ giá trị tín hiệu(dẫn đường về làng) của hai cây phong. Khẳng định vai trò không thể thiếu của chúng đối với những người đi xa về làng. Thể hiện niềm tự hào của dân làng Ku-ku-rêu về hai cây phong. 5. – Miêu tả đặc điểm hai cây phong qua tiếng nói riêng và tâm hồn riêng của chúng, kết hợp với các hình ảnh so sánh( tiếng thì thầm tha nồng thắm truyền qua lá cánh như một đốm lửa vô hình, tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào, reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực). – Năng lực cảm nhận tinh tế( cảm giác được sự sống của cả những vật vô tri vô giác). Trí tưởng tượng mãnh liệt. 6.- Hai cây phong là nơi hội tụ niềm vui tuổi thơ, nơi gắn bó chan hòa thân ái. Hai cây phong là nơi tiếp sức cho tuổi thơ khám phá thế giới. 7.– Địa vị cao cả của hai cây phong(vì nó gắn liền với người trồng nó là thầy Đuy- sen có tấm lòng cao cả như là ân nhân của làng Ku-ku-rêu) Hai cây phong là chứng nhân lịch sử của trường Đuy-sen. – Là tín hiệu của làng. Gắn bó, thân thuộc gần gũi với con người. Có sự sống riêng Nơi hội tụ niềm vui tuổi thơ. Nơi mở rộng chân trời hiểu biết. Nơi ghi khắc biến cố của làng, đó là trường Đuy-sen. HS tự bộc lộ. 10. a.Hai cây phong luôn hiện ra trước mặt hệt như những ngọn đèn hải đăng trên núi. b.- Sự tồn tại của hai cây phong to lớn trên đỉnh đồi phía trước làng. Nhân vật “tôi” có tình cảm yêu quý đặc biệt đối với hai cây phong. Nhân vật “tôi” là hoạ sĩ, có trí tưởng tượng mãnh liệt. – Tình cảm gần gũi, yêu quý. Cảm nhận hai cây phong như người thân yêu. Một nhu cầu tình cảm không thể thiếu. 11. - Nhớ cây đắm say, mãnh liệt. Như tầm hồn nặng lòng thương nhớ con người. – hai cây phong là hình ảnh trong sáng, tươi đẹp, thân thuộc với tuổi thơ êm đềm của nhân vật “tôi” nơi làng quê. Vì thế , khi xa quê, mong trở về quê sẽ nãy sinh nỗi buồn. Đó là nỗi buồn của sự xa cách những kỉ niệm tốt đẹp, đẹp đẽ (như mãnh vỡ của chiếc gương thần xanh) 12. – Trí tưởng tựơng mãnh liệt. Tâm hồn nhạy cảm. Nhất là tình yêu tha thiết, sâu nặng đối với hai cây phong, cũng là đối với vẻ đẹp làng quê của mình. 13. – Tình yêu quý hai cây phong gắn liền với người yêu quý người thấy giáo đã trồng hai cây phong ấy với ước mơ và hi vọng về sự trưởng thành của trẻ em làng Ku-ku-rêu. Ở đây, tình yêu thiên nhiên mở rộng tới tình yêu con ngừơi. 14. – Tình yêu tha thiết, sâu nặng dành cho thiên nhiên, con người và làng quê. Tâm hồn trong sáng, giàu xúc cảm cao đẹp. Tâm hồn ấy mang bản sắc quê hương. 15. – Vẻ đẹp thân thuộc và cao quý của hai cây phong. Tấm lòng gắn bó thiết tha của con người với cảnh vật nơi quê hương yêu dấu. 16. Thảo luận nhóm trả lời. Tầm hồn nhạy cảm với cái đẹp đẽ, cao quý. Tấm lòng quê sâu nặng(biểu hiện ở tình cảm tha thiết gắn bó với cảnh và người nơi quê hương). Có tài miêu tả và biểu cảm trong khi kể chuyện. 17.(HS tự bộc lộ) 18.(HS tự bộc lộ) Chẳng hạn: -Nhớ con sông quê hương(Tế Hanh) -Bên kia sông Đuống(Hoàng Cầm) T rong các bài giảng trên đây chúng tôi đã thiết kế hệ thống câu hỏi theo yêu cầu đảm bảo tính đa dạng, phong phú của các loại câu hỏi, phù hợp với các loại đối tượng. Trong đó có nhiều dạng: Hệ thống dễ, vừa sức với học sinh trung bình, yếu, kém . Hệ thống khó đáp ứng với học sinh khá, giỏi. Loại câu hỏi về kiến thức cơ bản. Loại câu hỏi tổng hợp, khái quát. Loại câu hỏi phát hiện chi tiết, cụ thể. Loại câu hỏi hình dung tưởng tượng. Loại câu hỏi đối chiếu so sánh . Loại câu hỏi gợi mở. Loại câu hỏi phân tích, giảng bình. Hệ thống câu hỏi cũng được xây dựng, thiết kế nhằm thoả mãn các yêu cầu cơ bản như: Tính hệ thống: Các câu hỏi đã bám chắc vào trình tự của bố cục, kết cấu của bài thơ (đề, thực, luận, kết), men theo nội dung trọng tâm của bài giảng , đảm bảo tính hợp lý, lô gíc của hệ thống. Tính vừa sức: thể hiện ở sự đa dạng, phong phú của hệ thống câu hỏi, đáp ứng yêu cầu của nhiều loại đối tượng, tạo điều kiện cho tất cả các đối tượng học sinh cùng tham gia tích cực. Hệ thống câu hỏi do vậy đã được xây dựng theo hướng phát huy chủ thể sáng tạo của học sinh. Tính có vấn đề: Các câu hỏi với những mức độ khó dễ khác nhau nhưng đều nhằm đặt ra các vấn đề, các tình huống buộc học sinh phải suy nghĩ để tìm cách trả lời. Câu hỏi đã bóc dần từng phần nội dung bài học cho nên huy động tri thức, hiểu biết để giải quyết các câu hỏi một cách tích cực, chủ động, các em sẽ nắm vững bài . Bám sát mục đích, yêu cầu và kiến thức trọng tâm của bài học: Trong lòng mẹ thể hiện nỗi khát khao tình mẫu tử một cách thiết tha và cảm động từ cảnh ngộ đáng thương và nỗi đau tinh thần của bé Hồng. 12 câu hỏi đã bám chắc để tập trung làm nỗi mục tiêu đó. Văn bản Qua Đèo Ngang có hai nội dung chính: cảnh tượng hoang vắng của Đèo Ngang và tâm trạng nhớ nước thương nhà của Bà huyện Thanh Quan. Các câu hỏi đã xoáy vào để dẫn dắt, định hướng học sinh đạt tới mục đích đó. Hơn nữa ở đây chúng tôi đã chú ý tới các mức độ khác nhau từ câu hỏi đọc hiểu cấu trúc văn bản đến câu hỏi tìm hiểu nội dung văn bản và đi đến hiểu ý nghĩa văn bản. Một trình tự như vậy đã đảm bảo bám sát vào mục đích- yêu cầu của bài học qua đó thấy được trình tự vận hành của một giờ giảng từ cả hai phía thầy và trò. Ở Hai cây phong tiêu biểu cho loại văn bản tự sự, với hai mạch kể lồng ghép vào nhau đã lý giải nguyên nhân gây xúc động cho người kể chuyện là hai cây phong gắn với tình yêu quê hương vói kỷ niệm tuổi thơ vói người thầy đầu tiên. Hệ thống câu hỏi được tổ chức là nhằm giúp người học chiếm lĩnh, nắm vững kiến thức trọng tâm đó. Dĩ nhiên việc thiết kế hệ thống câu hỏi của một giờ dạy - học văn là một công việc khó khăn, phức tạp cho nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Còn xa mới nói đến sự hoàn thiện. Để có được một hệ thống câu hỏi tốt, phát huy tối đa khả năng tích cực, chủ động của học sinh, tạo cho các em niềm say mê, hứng thú học văn đang là trăn trở của nhiều giáo viên đứng lớp hiện nay. T hiết kế hệ thống câu hỏi không phaỉ là một giải pháp duy nhất để thực hiện sự đổi mới và nâng cao chất lượng dạy học văn nhưng từ thực tế giảng dạy chúng tôi đã xem nó như một giải pháp có hiệu quả cao để phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong một giờ học văn.Việc vận dụng hệ thống câu hỏi như đã trình bày trong bài viết này, Sau gần 2 năm thay sách, chúng tôi đã thu được những kết quả đáng ghi nhận. Cụ thể như sau : Không khí lớp học sôi nổi, tích cực, hào hứng hơn, học sinh chịu khó suy nghĩ, phát biểu xây dựng bài nhiều hơn, có chủ kiến hơn. Các em nắm bài vững hơn nhanh hơn, kỹ năng vận dụng thành thạo hơn . Kiểm tra chất lượng khả quan hơn nhiều, các em nhớ bài lâu hơn, sâu hơn. Đ ể dạy- học tốt một giờ học văn, giáo viên phải đầu tư công sức thời gian để thiết kế hệ thống câu hỏi một cách hợp lý khoa học. Qui trình thao tác của một giờ dạy văn phải được thể hiện một cách cụ thể qua việc tổ chức các hoạt động dẫn dắt, định hướng, gợi mở để họcï sinh tự mình chiếm lĩnh kiến thức bài học bằng hệ thống câu hỏi.
Tài liệu đính kèm: